Thứ năm 12/06/2025 16:39
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Một số nội dung cơ bản của Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025

Ngày 19/02/2025, Quốc hội đã thông qua Luật Tổ chức chính quyền địa phương với 458/459 đại biểu có mặt biểu quyết tán thành, chiếm 96,03% tổng số đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/3/2025.

Sau gần 10 năm thi hành Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, 04 năm thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2019, sơ kết 03 năm thi hành các nghị quyết của Quốc hội về tổ chức chính quyền đô thị tại thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Đà Nẵng cho thấy, nhìn chung tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương các cấp đã dần đi vào ổn định, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, cơ bản đáp ứng được các yêu cầu quản lý, phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Tuy nhiên, bên cạnh các kết quả đạt được, các quy định của Luật còn một số hạn chế, bất cập như: (i) quy định về phân quyền, phân cấp, uỷ quyền tại Luật hiện hành còn chưa phù hợp với thực tiễn và chưa bảo đảm chặt chẽ để các luật chuyên ngành quy định thống nhất, đồng bộ; (ii) nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân các cấp chưa có sự phân biệt rõ theo từng cấp (tỉnh, huyện, xã) và theo đặc điểm đô thị, nông thôn, hải đảo; (iii) cơ cấu tổ chức của Hội đồng nhân dân các cấp chưa tinh gọn, hoạt động có nơi còn hình thức, chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ ngày càng cao của cơ quan đại diện, cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương; (iv) tổ chức của Ủy ban nhân dân các cấp chưa tinh gọn, hoạt động còn nặng về sự điều hành của tập thể Ủy ban nhân dân mà chưa phát huy được thẩm quyền, trách nhiệm của Chủ tịch Ủy ban nhân dân.

Theo đó, việc nghiên cứu, xây dựng và ban hành Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025 nhằm khắc phục các hạn chế, bất cập nêu trên; đồng thời, kịp thời thể chế hóa các quan điểm chỉ đạo của Đảng tại Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với các luật về tổ chức bộ máy nhà nước là cần thiết.

Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025 được thiết kế xây dựng trên cơ sở 03 nguyên tắc cơ bản: (i) xây dựng Luật này là luật chung, quy định các nguyên tắc về phân định thẩm quyền, phân quyền, phân cấp, ủy quyền của chính quyền địa phương, làm cơ sở để các luật chuyên ngành khi quy định nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương trong các lĩnh vực cụ thể phải bảo đảm phù hợp và thống nhất với quy định của Luật này; (ii) tạo hành lang pháp lý để xử lý những vấn đề thực tiễn, tháo gỡ “điểm nghẽn về thể chế, chính sách” nhằm thực hiện được ngay các quan điểm chỉ đạo của Đảng về đẩy mạnh phân cấp, phân quyền giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương, phát huy tính chủ động, sáng tạo của địa phương theo phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”; “cấp nào giải quyết hiệu quả hơn thì giao nhiệm vụ, thẩm quyền cho cấp đó”; (iii) đổi mới tư duy xây dựng pháp luật, theo đó luật chỉ quy định những vấn đề có tính nguyên tắc, đúng thẩm quyền của Quốc hội nhằm bảo đảm tính ổn định lâu dài của luật, đồng thời, dự liệu các vấn đề có thể thay đổi, biến động theo từng thời kỳ phát triển của đất nước để giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ quy định.

Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025 (sau đây gọi là Luật năm 2025) gồm 07 chương, 50 điều, giảm 01 chương và 93 điều so với Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2019 (sau đây gọi là Luật năm 2015) với các điểm mới cơ bản sau:

1. Về phân định thẩm quyền, phân cấp, phân quyền, ủy quyền

Luật năm 2025 quy định 01 chương về phân định thẩm quyền, phân quyền, phân cấp, uỷ quyền giữa chính quyền địa phương các cấp.

Về nguyên tắc phân định thẩm quyền (Điều 11): Luật năm 2025 quy định 07 nguyên tắc phân định thẩm quyền (khoản 2 Điều 11), trong đó có những nội dung mới như: (i) xác định rõ nội dung và phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn mà chính quyền địa phương được quyết định, tổ chức thực hiện và chịu trách nhiệm về kết quả; (ii) bảo đảm không trùng lặp, chồng chéo về nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ quan và giữa chính quyền địa phương các cấp; (iii) phù hợp khả năng, điều kiện thực hiện nhiệm vụ của chính quyền địa phương các cấp; cơ quan, tổ chức, cá nhân được giao thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan nhà nước cấp trên được bảo đảm các điều kiện cần thiết để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn; (iv) bảo đảm kiểm soát quyền lực; trách nhiệm giám sát, kiểm tra của cơ quan nhà nước cấp trên; (v) đáp ứng yêu cầu quản trị địa phương; ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số…

Đồng thời, để khuyến khích tinh thần chủ động, sáng tạo của địa phương, Luật năm 2025 bổ sung quy định “Chính quyền địa phương được chủ động đề xuất với cơ quan có thẩm quyền về việc phân quyền, phân cấp cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền ở địa phương thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn phù hợp với khả năng và điều kiện thực tiễn của địa phương” (khoản 3 Điều 11).

Về phân quyền (Điều 12): Luật năm 2025 quy định rõ các yêu cầu, điều kiện của việc phân quyền như: (i) việc phân quyền cho chính quyền địa phương các cấp phải được quy định trong luật, nghị quyết của Quốc hội; (ii) chính quyền địa phương tự chủ trong việc ra quyết định, tổ chức thi hành và tự chịu trách nhiệm trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được phân quyền; (iii) cơ quan nhà nước cấp trên trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm kiểm tra, thanh tra, giám sát về tính hợp hiến, hợp pháp trong việc chính quyền địa phương các cấp thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được phân quyền.

Về phân cấp (Điều 13): Luật năm 2025 quy định một số điểm mới như: (i) quy định rõ chủ thể phân cấp và chủ thể nhận phân cấp; (ii) quy định trách nhiệm của cơ quan phân cấp trong việc bảo đảm các điều kiện để thực hiện việc phân cấp; (iii) cơ quan nhận phân cấp chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước cơ quan phân cấp về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được phân cấp; (iv) không được phân cấp tiếp nhiệm vụ, quyền hạn mà mình nhận phân cấp; (v) quy định về việc điều chỉnh thủ tục hành chính trong trường hợp thực hiện phân cấp.

Về ủy quyền (Điều 14): So với Luật năm 2015, Luật năm 2025 có các điểm mới sau: (i) làm rõ và mở rộng phạm vi chủ thể ủy quyền và chủ thể nhận ủy quyền (quy định về ủy quyền của Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cho cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác, đơn vị sự nghiệp công lập cùng cấp hoặc Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp dưới; ủy quyền giữa cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính thuộc Ủy ban nhân dân cấp trên cho Ủy ban nhân dân cấp dưới); (ii) quy định rõ yêu cầu của việc ủy quyền (ủy quyền phải bằng văn bản của cơ quan uỷ quyền; văn bản phải quy định rõ nội dung, phạm vi, thời hạn ủy quyền); (iii) quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan trong việc ủy quyền và thực hiện nhiệm vụ ủy quyền; (iv) quy định việc sử dụng con dấu và hình thức văn bản khi thực hiện nhiệm vụ ủy quyền, việc điều chỉnh thủ tục hành chính trong trường hợp thực hiện ủy quyền.

2. Về nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân

Thực hiện nguyên tắc “rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm” và tránh quy định chồng chéo, trùng lặp nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cấp chính quyền địa phương và giữa các cơ quan của chính quyền địa phương, Luật năm 2025 quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ở mỗi đơn vị hành chính theo hướng: (i) phân định nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cấp chính quyền địa phương và giữa Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cùng cấp; (ii) phân định nhiệm vụ, quyền hạn của tập thể Ủy ban nhân dân và cá nhân Chủ tịch Ủy ban nhân dân nơi tổ chức cấp chính quyền địa phương theo hướng tăng nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm cho cá nhân Chủ tịch Ủy ban nhân dân; (iii) quy định nhiệm vụ, quyền hạn theo hướng khái quát, tập trung vào các lĩnh vực về tài chính ngân sách, tổ chức bộ máy, biên chế, hoạt động kiểm tra, giám sát... bảo đảm phù hợp với các nguyên tắc phân định thẩm quyền tại Điều 11 của Luật năm 2025 và bảo đảm tính ổn định lâu dài của luật.

3. Về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân

So với Luật năm 2015, Luật năm 2025 đã quy định theo hướng: (i) giữ nguyên nội dung về cơ cấu tổ chức của Hội đồng nhân dân nhưng gộp chung 01 điều (Luật năm 2015 đưa vào từng điều riêng của từng loại hình đơn vị hành chính); (ii) quy định khái quát hoạt động của Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, nhiệm vụ, quyền hạn của Đại biểu Hội đồng nhân dân (các nội dung chi tiết về triệu tập, chủ trì phiên họp, khách mời, tài liệu, cung cấp thông tin về kỳ họp Hội đồng nhân dân, tổ chức và hoạt động của các ban, tổ đại biểu Hội đồng nhân dân,… sẽ hướng dẫn tại Quy chế hoạt động mẫu); (iii) sửa đổi, bổ sung một số quy định nhằm giải quyết các vướng mắc, khó khăn trong thực tiễn tổ chức thực hiện pháp luật như: không quy định Chủ tịch Ủy ban nhân dân đầu nhiệm kỳ là đại biểu Hội đồng nhân dân; bổ sung quy định về trường hợp khuyết Chủ tịch Hội đồng nhân dân, khuyết Thường trực Hội đồng nhân dân; bổ sung quy định về tạm đình chỉ chức vụ Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Trưởng, phó Ban của Hội đồng nhân dân,…

4. Về tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân

So với Luật năm 2015, Luật năm 2025 đã quy định theo hướng: (i) quy định khái quát cơ cấu tổ chức của Ủy ban nhân dân gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các uỷ viên; giao Chính phủ quy định cụ thể; (ii) khái quát các nội dung và hoạt động của Ủy ban nhân dân (các nội dung chi tiết về triệu tập, chủ trì cuộc họp, khách mời, tài liệu, cung cấp thông tin về cuộc họp của Ủy ban nhân dân, trách nhiệm của Phó Chủ tịch và Uỷ viên Ủy ban nhân dân,… sẽ hướng dẫn tại Quy chế hoạt động mẫu); (iii) quy định rõ các nội dung Ủy ban nhân dân phải thảo luận và quyết nghị, những nội dung Ủy ban nhân dân có thể uỷ quyền cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân quyết định.

5. Về tổ chức đơn vị hành chính, thành lập, giải thể, nhập chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới và đổi tên đơn vị hành chính

So với Luật năm 2015, Luật năm 2025 đã đổi tên chương và thứ tự của Chương II tổ chức đơn vị hành chính, thành lập, giải thể, nhập chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới và đổi tên đơn vị hành chính (Luật năm 2015 quy định các nội dung này tại Chương VIII: thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính) để bảo đảm phù hợp với Hiến pháp năm 2013. Luật đã quy định một số nguyên tắc tổ chức đơn vị hành chính, điều kiện thành lập, giải thể, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính. Bên cạnh đó, so với Luật năm 2015, Luật năm 2025 đã quy định theo hướng khái quát về trình tự, thủ tục thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính và giao Chính phủ quy định cụ thể về việc xây dựng, lấy ý kiến cử tri, khảo sát, thẩm định đề án thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính, bảo đảm tính linh hoạt và đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.

6. Về điều khoản chuyển tiếp

Kế thừa quy định của Luật năm 2015, Luật năm 2025 tiếp tục quy định “Việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương, các cơ quan của chính quyền địa phương tại các văn bản quy phạm pháp luật phải phù hợp với quy định tại Luật này, bảo đảm quyền lực nhà nước được kiểm soát hiệu quả” (Điều 11).

Trong bối cảnh hệ thống pháp luật đang tồn tại nhiều vướng mắc, không bảo đảm tính thống nhất với các nguyên tắc quy định tại Luật năm 2025 nên Luật năm 2025 đã quy định về điều khoản chuyển tiếp theo hướng: (i) đối với các luật chuyên ngành chưa phù hợp với các nguyên tắc phân định thẩm quyền, phân cấp, ủy quyền tại Luật năm 2025, trong thời hạn 02 năm kể từ ngày Luật năm 2025 có hiệu lực thi hành, phải tiến hành rà soát và sửa đổi, bổ sung cho phù hợp; (ii) để kịp thời đẩy mạnh phân quyền, phân cấp cho chính quyền địa phương trong một số lĩnh vực ưu tiên, cấp bách, giao Chính phủ ban hành văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền phân định lại nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương và điều chỉnh các quy định khác có liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương để thống nhất áp dụng trong thời gian chưa sửa đổi, bổ sung các luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và định kỳ báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội; trường hợp liên quan đến luật, nghị quyết của Quốc hội thì báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.

Minh Trí

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý cho sản phẩm báo chí trên không gian mạng

Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý cho sản phẩm báo chí trên không gian mạng

Đây là chỉ đạo của Thứ trưởng Bộ Tư pháp Đặng Hoàng Oanh tại phiên họp Hội đồng thẩm định hồ sơ dự án Luật Báo chí (sửa đổi) ngày 09/6/2025. Thứ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch Lê Hải Bình đồng chủ trì phiên họp.
Quyền và nghĩa vụ của phóng viên, biên tập viên chưa được cấp thẻ nhà báo

Quyền và nghĩa vụ của phóng viên, biên tập viên chưa được cấp thẻ nhà báo

Đây là quy định mới trong dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi)[1] do Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch chủ trì soạn thảo.
[1] Dự thảo ngày 30/5/2025 gửi Bộ Tư pháp thẩm định.
Nghiên cứu hình thành chế định luật sư công trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam để bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích của cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống chính trị

Nghiên cứu hình thành chế định luật sư công trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam để bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích của cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống chính trị

Ngày 09/6/2025, Bộ Tư pháp tổ chức Hội thảo về Đề án “Nghiên cứu xây dựng chế định luật sư công trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay”. Thứ trưởng Bộ Tư pháp Mai Lương Khôi chủ trì Hội thảo. Đồng chí Lê Xuân Hồng, Cục trưởng Cục Bổ trợ tư pháp, Bộ Tư pháp đồng chủ trì Hội thảo.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Tập trung thiết kế Quỹ hỗ trợ xây dựng chính sách pháp luật với mô hình tổ chức phù hợp

Tập trung thiết kế Quỹ hỗ trợ xây dựng chính sách pháp luật với mô hình tổ chức phù hợp

Đây là một trong những chỉ đạo của Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tú tại buổi làm việc với các đơn vị về báo cáo triển khai Nghị quyết số 197/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong công tác xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật ngày 29/5/2025.
Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử. Trên cơ sở nhận diện những khó khăn, vướng mắc, bài viết đề xuất các khuyến nghị để xây dựng khung pháp lý toàn diện, hiệu quả hơn trong việc tích hợp trí tuệ nhân tạo vào công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời gian tới.
Cơ quan đầu tiên hoàn thành Báo cáo tổng hợp kết quả  lấy ý kiến về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của  Hiến pháp năm 2013

Cơ quan đầu tiên hoàn thành Báo cáo tổng hợp kết quả lấy ý kiến về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Theo chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp phải được tiến hành thận trọng, khách quan, dân chủ, khoa học, hiệu quả với sự tham gia tích cực, đồng bộ của các cơ quan, tổ chức, các chuyên gia, nhà khoa học. Cũng như các cơ quan khác, Bộ Tư pháp được giao nhiệm vụ lấy ý kiến Nhân dân về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp trong thời gian 01 tháng, đồng thời có nhiệm vụ tổng hợp các ý kiến góp ý trình Chính phủ. Trong không khí Bộ Tư pháp đang khẩn trương hoàn thành các công việc trên, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn Thứ trưởng Bộ Tư pháp Đặng Hoàng Oanh xung quanh vấn đề này.
Giảm thiểu thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện các hoạt động tương trợ tư pháp về dân sự

Giảm thiểu thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện các hoạt động tương trợ tư pháp về dân sự

Trong khuôn khổ chương trình kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV, chiều ngày 26/5/2025, Quốc Hội nghe trình bày Tờ trình và Báo cáo thẩm tra dự án Luật Tương trợ tư pháp về dân sự.
Phát huy tối đa vai trò, trách nhiệm của cơ quan thông tin, báo chí, phương tiện thông tin đại chúng để Nhân dân hiểu rõ, hiểu đúng, hiểu đầy đủ về mục đích, ý nghĩa và những nội dung sửa đổi Hiến pháp năm 2013

Phát huy tối đa vai trò, trách nhiệm của cơ quan thông tin, báo chí, phương tiện thông tin đại chúng để Nhân dân hiểu rõ, hiểu đúng, hiểu đầy đủ về mục đích, ý nghĩa và những nội dung sửa đổi Hiến pháp năm 2013

Ngày 25/5/2025, Tổ công tác của Bộ Tư pháp về nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 tiếp tục làm việc để thảo luận về những vấn đề lớn tại Đề cương dự thảo Báo cáo của Chính phủ và Báo cáo tổng hợp kết quả lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013. Bà Nguyễn Thị Hạnh, Vụ trưởng Vụ Pháp luật hình sự - hành chính chủ trì buổi làm việc.
Không đề xuất điều chỉnh tăng mức phạt trong dự thảo Luật Xử lý  vi phạm hành chính

Không đề xuất điều chỉnh tăng mức phạt trong dự thảo Luật Xử lý vi phạm hành chính

Trong bối cảnh sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy, tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp, đặt ra vấn đề phải khẩn trương sửa đổi, bổ sung các quy định có liên quan của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Chúng tôi đã có cuộc trao đổi với ông Hồ Quang Huy, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính về vấn đề này.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính đáp ứng yêu cầu cấp bách của việc sắp xếp bộ máy, ứng dụng khoa học công nghệ

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính đáp ứng yêu cầu cấp bách của việc sắp xếp bộ máy, ứng dụng khoa học công nghệ

Trước yêu cầu cấp bách của việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy nhà nước, cải cách mạnh mẽ thủ tục, phương thức điều hành hành chính; đồng thời, đẩy mạnh việc ứng dụng khoa học công nghệ trong quản lý nhà nước, dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính được xây dựng nhằm góp phần tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, bảo đảm phù hợp với chủ trương tổ chức bộ máy quản lý nhà nước thời gian qua và trong giai đoạn sắp tới.
Một số góp ý liên quan đến đơn vị hành chính trong dự thảo Nghị quyết  sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Một số góp ý liên quan đến đơn vị hành chính trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Phân định địa giới lãnh thổ để quản lý dân cư và vận hành hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội là công việc hệ trọng nên quốc gia nào cũng quy định trong Hiến pháp để làm cơ sở cho việc xác lập cấp chính quyền địa phương và phân định quyền lực giữa trung ương, địa phương. Ở nước ta, Hiến pháp là luật cơ bản, có hiệu lực pháp lý cao nhất và là căn cứ quan trọng để xây dựng, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các lĩnh vực trong quản lý nhà nước và đời sống chính trị, xã hội. Sơ lược lịch sử lập Hiến từ năm 1946 đến nay của Việt Nam và tham khảo quy định của một số nước, bài viết đề xuất một số nội dung về việc sửa đổi, bổ sung quy định về đơn vị hành chính của Việt Nam.
Một số góp ý liên quan đến các tổ chức chính trị - xã hội tại dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Một số góp ý liên quan đến các tổ chức chính trị - xã hội tại dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Quốc hội khóa XV đã ban hành Nghị quyết số 194/2025/QH15 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013. Ủy ban sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 dự kiến sửa đổi các Điều 9, 10 và khoản 1 Điều 84 liên quan đến các tổ chức chính trị - xã hội để thể chế hóa quan điểm, định hướng của Đảng về thu gọn đầu mối, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Sơ lược về mối quan hệ giữa tổ chức chính trị - xã hội và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, bài viết đề xuất một số nội dung về việc sửa đổi, bổ sung quy định liên quan đến các tổ chức chính trị - xã hội.
Làm rõ mối quan hệ của chấp hành viên với thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự cấp tỉnh

Làm rõ mối quan hệ của chấp hành viên với thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự cấp tỉnh

Đây là một trong những ý kiến được đưa ra tại cuộc họp thẩm định dự án Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi). Đồng chí Nguyễn Thanh Tú, Thứ trưởng Bộ Tư pháp chủ trì Hội đồng thẩm định.
Tiếp tục hoàn thiện dự thảo Chương trình hành động của Bộ Tư pháp thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW

Tiếp tục hoàn thiện dự thảo Chương trình hành động của Bộ Tư pháp thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW

Ngày 21/5/2025, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tú chủ trì buổi làm việc với các đơn vị về dự thảo Chương trình hành động của Bộ Tư pháp thực hiện Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm