Chủ nhật 14/12/2025 04:30
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Một số nội dung về văn bản pháp luật triều hậu lê và đối chiếu với văn bản quy phạm pháp luật hiện hành

Trong lịch sử Việt Nam nói chung và lịch sử Việt Nam thời trung đại nói riêng thì triều Hậu Lê được đánh giá là giai đoạn phát triển rực rỡ nhất. Đây là giai đoạn lịch sử để lại nhiều dấu ấn,

Trong lịch sử Việt Nam nói chung và lịch sử Việt Nam thời trung đại nói riêng thì triều Hậu Lê được đánh giá là giai đoạn phát triển rực rỡ nhất. Đây là giai đoạn lịch sử để lại nhiều dấu ấn, trong đó, đặc biệt lưu ý là về phương diện pháp luật và không thể không nhắc đến một số văn bản quan trọng và ý nghĩa như Quốc triều hình luật (hay Bộ luật Hồng Đức) Quốc triều khám tụng điều lệ, Lê triều quan chế, Luật Thư Một trong những giá trị được kế thừa đến nay đó là về sự phân loại, thể thức và kỹ thuật xây dựng pháp luật, qua việc tìm hiểu một số nội dung về văn bản pháp luật triều Hậu Lê, có thể nhận thấy, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 có nhiều điểm tương đồng.

1. Hệ thống văn bản pháp luật

1.1. Pháp luật thời Hậu Lê

Nhà nước phong kiến Việt Nam đã xây dựng nhiều bộ luật như Hình thư (thời nhà Lý), Quốc triều hình luật (thời nhà Trần), Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức - thời nhà Lê)… Các bộ luật thời kỳ phong kiến được biên soạn dưới sự chỉ đạo của nhà Vua và do nhà Vua ban hành thông thường là những bộ tổng luật điều chỉnh nhiều lĩnh vực như dân sự, hình sự, đất đai, lao động… Do các văn bản đó được ban hành có tính hệ thống hóa cao nên thường được các nhà sử học, luật học gọi là bộ luật, nhưng bản thân các văn bản đó có chứa tên gọi là bộ luật[6]. Nằm trong dòng chảy đó, triều Hậu Lê đã để lại cho thế hệ sau một hệ thống pháp luật đồ sộ, trong đó, không thể không nhắc đến Quốc triều hình luật và Quốc triều khám tụng điều lệ. Nếu như Quốc triều hình luật được đánh giá là “đỉnh cao của thành tựu pháp luật Việt Nam thời phong kiến”[7] thì Quốc triều khám tụng điều lệ là bộ luật riêng về tố tụng duy nhất trong lịch sử pháp luật ở Đại Việt và có lẽ ở cả phương Đông phong kiến[8]. Mặc dù Quốc triều hình luật là luật nội dung còn Quốc triều khám tụng điều lệ là luật hình thức, tuy nhiên, điểm giống nhau giữa hai văn bản này là quy định những vấn đề chung và bao quát các vấn đề, lĩnh vực pháp luật nhất định.

Ngoài Quốc triều hình luật và Quốc triều khám tụng điều lệ nêu trên, còn các văn bản pháp luật khác được ban hành để điều chỉnh những mối quan hệ xác định. Nói cách khác, đây là những văn bản đơn hành, cụ thể:

- Chiếu: Thường là văn bản dùng để công bố hoặc khuyến cáo về một chính sách, một định hướng hoặc thể hiện những quan điểm, tư tưởng của nhà Vua về một vấn đề nào đó mang tính vĩ mô để quản lý đất nước hoặc để thực hiện các công việc quan trọng khác liên quan mang tầm quốc gia. Tuy nhiên, đôi khi chiếu cũng là văn bản được nhà Vua ban hành trong những trường hợp cụ thể để điều chỉnh các quan hệ cụ thể, ví dụ như ban chiếu để xử phạt các quan đại thần.

- Lệ: Là loại văn bản thường chứa đựng các quy định mang tính quy tắc bắt buộc thi hành về một lĩnh vực nào đó của đời sống đất nước, nhằm tạo ra một chuẩn mực ứng xử nhất định trong xã hội. Lệ thường dùng để điều chỉnh, quy định những vấn đề chung, có hiệu lực khá lâu dài và có mức độ chi phối lớn trong đời sống xã hội, trong ý thức của người dân. Có thể kể đến một số lệ điển hình như: Lệ về chia mở chợ mới[9], lệ về tư cách của tiến sỹ[10]… Tuy nhiên, việc ban hành các lệ chủ yếu ở triều Vua Lê Thánh Tông, Vua Lê Hiến Tông và Vua Lê Tương Dực, ở các triều vua còn lại, lệ rất ít hoặc hầu như không được ban hành[11].

- Lệnh: Là văn bản được ban hành để thể hiện ý chí của nhà Vua, nhà nước về các vấn đề liên quan đến quản lý đất nước hoặc thực hiện pháp luật hoặc về các vấn đề mang tính thời sự liên quan đến vận mệnh quốc gia dân tộc. Tuy nhiên, lệnh khác với lệ ở chỗ “những quy định này thường thiên về việc nghiêm cấm những hành vi, những việc không được làm, còn trong lệ thì có thể vừa có quy định những điều không được làm, vừa có cả những điều bắt buộc phải làm”[12]. Có thể nêu một số lệnh như: Lệnh đắp bờ ruộng để chứa nước[13], lệnh đặt xã trưởng[14]

- Chỉ: Là một loại văn bản thể hiện ý chí của nhà Vua về một vấn đề cụ thể nào đó của quản lý nhà nước hoặc để giải quyết những công việc nhất định, thường có liên quan đến những chủ thể cụ thể. Một số chỉ được ban hành như: Chỉ quy định quan viên có tội thì về làm dân[15], Chỉ cho phép tù nhân kêu oan nhân ngày “tể thần xét tù”[16]

- Dụ: Là một loại văn bản do nhà Vua ban hành, mang tính định hướng khá rõ, thường thể hiện sự khuyên bảo, khuyến khích, khen thưởng đối với các chủ thể được đề cập ở Dụ, chủ thể thường là cá nhân cụ thể. Dụ tuy mang tính khuyên bảo, khuyến khích, tuy nhiên vẫn có hiệu lực bắt buộc thi hành. Có thể nhắc đến một số Dụ như: Dụ không nên thù oán người Minh[17], Dụ về trách nhiệm khi xét xử đối với các đại thần, thái giám và hình quan[18]

- Sắc: Là văn bản thường “thể hiện quyết định của nhà Vua trong việc tuyên bố, điều động, thăng chức, giáng chức hoặc chứng nhận chức vụ cho quan” hoặc “dùng để phong thần, thánh cho những người có công lao với đất nước và cho phép dân chúng được thờ cúng, phong tê thụy cho quan hoặc phong phẩm hàm cho bố mẹ các quan”[19]. Ví dụ một số Sắc như: Sắc cho Lê Xí về việc tâu phong quốc tính cho các quan[20].

Tóm lại, hệ thống pháp luật triều Hậu Lê vừa kế thừa giá trị lịch sử của các triều đại phong kiến của Nhà nước Đại Việt cũng như tiếp thu tinh hoa pháp lý nhà Đường - Trung Quốc, vừa có những điểm tiến bộ, mang dấu ấn sâu sắc, qua đó, thể hiện rõ tinh thần “thượng tôn pháp luật” trong triều Hậu Lê.

1.2. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015

Ngày 22/6/2015, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2016. Nếu như trước đây, việc ban hành văn bản pháp luật được quy định tại hai luật là Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân năm 2004 thì từ năm 2015, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật trên cơ sở kế thừa và phát triển hai luật nêu trên, hợp nhất thành một luật áp dụng thống nhất cho việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật từ trung ương đến địa phương. Với chủ trương tiếp tục tinh gọn hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, Điều 3 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 quy định hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Theo đó, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật gồm 26 hình thức do 18 chủ thể có thẩm quyền ban hành. Ngoài ra, Luật cũng xác định cụ thể nội dung ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật[21].

Như vậy, có thể nhận thấy, việc xác định cụ thể các hình thức văn bản quy phạm pháp luật và chủ thể ban hành như quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 đã được cha ông ta ghi nhận từ thời phong kiến xa xưa. Mặc dù chưa rõ ràng về hình thức và chủ thể ban hành, tuy nhiên, bóng dáng của việc phân định các hình thức văn bản dù là bộ luật hay văn bản đơn hành thời phong kiến là không thể phủ nhận được và không khó khăn gì để tìm được minh chứng trong hệ thống các văn bản pháp luật đồ sộ thời Hậu Lê.

2. Về thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản pháp luật

2.1. Pháp luật thời Hậu Lê

Nhằm đề cao tính chịu trách nhiệm trực tiếp của chủ thể ban hành văn bản, thời Vua Lê Thánh Tông đã ghi nhận “các bản tâu và đề của nha môn trong ngoài thì chính viên quan phụ trách phải ký tên, không được sai lại viên thư tả viết tên hộ”[22]. Theo đó, ngoại trừ Quốc triều hình luật không ghi chính xác tác giả, niên đại[23], còn lại tất cả các văn bản pháp luật nêu trên đều xác định rõ chủ thể, thời gian ban hành. Thể thức văn bản triều Hậu Lê gồm các yếu tố cơ bản như: Quốc hiệu; niên hiệu; ngày, tháng ban hành; tên chủ thể có thẩm quyền, dấu đóng trên văn bản, họ tên chức vụ và chữ ký của người soạn thảo…

2.2. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015

Trước khi Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 được thông qua, vấn đề về thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản quy phạm pháp luật đã được quan tâm và thể chế hóa. Điều này được thể hiện thông qua việc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản quy phạm pháp luật như Nghị quyết số 1139/2007/UBTVQH11 ngày 03/7/2007 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Quy chế về kỹ thuật trình bày dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Thông tư số 25/2011/TT-BTP ngày 27/12/2011 của Bộ Tư pháp quy định về thể thức, kỹ thuật trình bày văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ và văn bản quy phạm pháp luật liên tịch… Không chỉ đối với các văn bản quy phạm pháp luật mà kể cả đối với văn bản hành chính, các cơ quan nhà nước cũng đã ban hành các văn bản về thể thức và kỹ thuật như Thông tư số 01/2011/TT-BNV ngày 19/01/2011 của Bộ Nội vụ về hướng dẫn thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản hành chính… Sau khi Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 được thông qua, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã ban hành quy định về thể thức và kỹ thuật trình bày như Nghị quyết số 351/2017/UBTVQH14 ngày 14/3/2017 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước; Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật…

Tóm lại, trong thời kỳ phong kiến ở nước ta với 04 bộ luật thành văn gồm Hình thư của nhà Lý, Hình luật của nhà Trần, Quốc triều hình luật của nhà Lê và Hoàng Việt luật lệ của nhà Nguyễn đã để lại cho thế hệ sau nguồn tư liệu tham khảo về pháp luật. Có thể khẳng định rằng, tuy được ban hành cách đây hơn 500 năm nhưng quy định của triều Hậu Lê về phân loại, thể thức và kỹ thuật xây dựng văn bản pháp luật mang nhiều đặc điểm của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện nay. Thay cho lời kết, tác giả hoàn toàn đồng ý với nhận định của GS.TS. Trần Ngọc Đường, Nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội rằng “Quốc triều hình luật là niềm tự hào về một trong những thành tựu đặc sắc nhất của nền văn hóa pháp lý Việt Nam trong thời kỳ phong kiến”.

Trần Thị Thu Hằng

Cục Bồi thường nhà nước, Bộ Tư pháp


[1] Triều Hậu Lê (1428 - 1788) trị vì 360 năm, gồm 27 đời vua.

[2] Quốc triều hình luật gồm 06 quyển, 13 chương, 722 điều, do Vua Lê Thánh Tông ban hành năm 1483.

[3] Quốc triều khám tụng điều lệ gồm 31 lệ (điều), do Vua Lê Hiển Tông ban hành năm 1777.

[4] Lê triều quan chế do Vua Lê Thánh Tông ban hành năm 1471.

[5] Luật Thư gồm 06 quyển, do Nguyễn Trãi biên soạn từ năm 1440 - 1442.

[6] Bộ Tư pháp, Từ điển luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa và Nxb. Tư pháp, năm 2006, tr. 73.

[7] Lê Thị Khánh Ly, Nghiên cứu văn hóa, Số 01/2010, http://csnd.vn/Home/Nghien-cuu-Trao-doi/733/Quoc-trieu-Hinh-luat-dinh-cao-cua-thanh-tuu-luat-phap-Viet-Nam-thoi-phong-kien.

[8] Giáo trình Lịch sử Nhà nước và Pháp luật Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, năm 2015, tr. 247.

[9] Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Văn học, Hà Nội, năm 2009, tr. 678.

[10] Đại Việt sử ký toàn thư, Tlđd, tr. 668.

[11] Nguyễn Minh Tuấn & Mai Văn Thắng, Nhà nước và pháp luật triều Hậu Lê với việc bảo vệ quyền con người, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014, tr. 93.

[12] Vũ Thị Phụng, Văn bản quản lý nhà nước thời Nguyễn (1082 - 1884), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 84.

[13] Đại Việt sử ký toàn thư, TLđd, tr. 699.

[14] Đại Việt sử ký toàn thư, Tlđd, tr. 722.

[15] Đại Việt sử ký toàn thư, Tlđd, tr. 650.

[16] Đại Việt sử ký toàn thư, Tlđd, tr. 645.

[17] Đại Việt sử ký toàn thư, Tlđd, tr. 514.

[18] Đại Việt sử ký toàn thư, Tlđd, tr. 570.

[19] Vũ Thị Phụng, Tlđd, tr. 112.

[20] Đại Việt sử ký toàn thư, Tlđd, tr. 614.

[21] Điều 15 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.

[22] Đại Việt sử ký toàn thư, Tlđd, tr. 695.

[23] Giáo trình Lịch sử Nhà nước và Pháp luật Việt Nam, Tlđd, tr. 196.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bài viết nêu lên vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước và đề xuất một số giải pháp nâng cao vai trò của Bộ Tư pháp trong giai đoạn mới.
Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Trong quá trình phát triển của đất nước, đặc biệt, trong 10 năm gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế - xã hội Việt Nam, việc xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật là công tác đặc biệt quan trọng. Với sự nỗ lực không ngừng, Bộ Tư pháp đã cùng các bộ, ngành làm tốt công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống, góp phần quan trọng trong thực hiện thành công công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế, giữ vững chủ quyền quốc gia, an ninh, trật tự xã hội, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa, tinh thần của Nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội, xây dựng xã hội dân chủ, văn minh theo đường lối của Đảng và Nhà nước. Để đạt được những thành tựu đó, nhiều hoạt động đã được triển khai đồng bộ, từ công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL); đặc biệt, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực làm công tác xây dựng, thi hành pháp luật. Bộ Tư pháp đã chủ động, tích cực phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, trong đó có Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong công tác xây dựng thể chế, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác pháp chế.
Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Với chức năng là cơ quan của Chính phủ, thực hiện quản lý nhà nước về xây dựng và thi hành pháp luật, Bộ Tư pháp đã và đang đóng góp, góp phần quan trọng trong kiến tạo nền tảng pháp lý vững chắc, phục vụ mục tiêu phát triển đất nước; đồng thời, đóng vai trò chủ đạo trong xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ pháp luật, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và thúc đẩy tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những kết quả đạt được thể hiện qua các nội dung chính sau:
Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Ngày 01/01/2004, tỉnh Lai Châu chính thức được chia tách thành tỉnh Điện Biên và Lai Châu. Đây cũng là thời điểm Sở Tư pháp tỉnh Lai Châu (mới) được thành lập và đi vào hoạt động. Trải qua hơn 21 năm xây dựng và phát triển, ngành Tư pháp tỉnh Lai Châu đã vượt qua khó khăn, thử thách, ngày càng lớn mạnh và khẳng định được vai trò, vị thế của mình.
Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Trợ giúp pháp lý (TGPL) là một trong những chính sách xã hội có ý nghĩa nhân văn sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo đảm quyền được tiếp cận công lý bình đẳng của mọi tầng lớp Nhân dân, đặc biệt là nhóm những người yếu thế trong xã hội. Thông qua các hoạt động TGPL, người yếu thế trong xã hội được cung cấp, sử dụng dịch vụ pháp lý miễn phí khi có tranh chấp, góp phần nâng cao ý thức pháp luật và phòng ngừa vi phạm pháp luật. Trong hoạt động TGPL, đội ngũ luật sư đóng vai trò then chốt, là lực lượng trực tiếp thực hiện việc tư vấn, đại diện và bào chữa cho các đối tượng yếu thế. Tuy nhiên, thực tế cho thấy công tác TGPL còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, cả về cơ chế, nguồn lực và phương thức triển khai.
Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Việc tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong giảng dạy chương trình Trung cấp lý luận chính trị là yêu cầu tất yếu, góp phần trực tiếp vào việc xây dựng bản lĩnh chính trị, củng cố niềm tin và năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ đương chức và dự nguồn cấp cơ sở. Trên cơ sở thực tiễn công tác giảng dạy và yêu cầu đổi mới giáo dục lý luận chính trị, cần đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị (Học phần) tại Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ.
Thực tiễn thi hành Luật Tương trợ tư pháp phần về dân sự

Thực tiễn thi hành Luật Tương trợ tư pháp phần về dân sự

Sau hơn 17 năm thi hành, Luật Tương trợ tư pháp năm 2007, thực tiễn đời sống xã hội đang đặt ra nhiều yêu cầu mới đối với hoạt động TTTP về dân sự. Do đó, việc tổng kết thực tiễn thực hiện Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 là cần thiết, từ đó, đánh giá những điểm còn hạn chế so với yêu cầu thực tiễn, làm cơ sở đề xuất hoàn thiện pháp luật TTTP về dân sự trong bối cảnh mới.
Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Trường Cao đẳng Luật miền Bắc được nâng cấp từ Trường Trung cấp Luật Thái Nguyên theo Quyết định số 869/QĐ-LĐTBXH ngày 10/7/2020 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (nay là Bộ Nội vụ), đã kế thừa hơn một thập kỷ kinh nghiệm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ pháp lý cấp cơ sở, đặc biệt, tại khu vực trung du và miền núi phía Bắc.
Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Bộ Tư pháp đã trang bị, bổ sung, ứng dụng các công nghệ mới như máy chủ ảo hóa, lưu trữ SAN; máy chủ ứng dụng, máy chủ cơ sở dữ liệu cho Trung tâm dữ liệu điện tử để đáp ứng yêu cầu quản lý, vận hành và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp.
Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Bài viết về những thành tựu nổi bật và định hướng phát triển công tác hành chính tư pháp trong thời gian tới.
Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Tạp chí) là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, có chức năng thông tin về khoa học pháp lý, thông tin lý luận, nghiệp vụ và thực tiễn trong xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp của Bộ, ngành Tư pháp; tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước theo quy định pháp luật; đồng thời, là diễn đàn trao đổi học thuật, thực tiễn và chính sách trong lĩnh vực pháp luật[1].
Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, thực hiện chức năng thông tin về các hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp và các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội trong nước và quốc tế; truyền thông, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hoạt động xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp phục vụ yêu cầu quản lý của Bộ Tư pháp, đáp ứng nhu cầu của xã hội về thông tin, nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật, phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tham gia định hướng tư tưởng, phản biện xã hội, khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết và tự lực, tự cường của Nhân dân, đồng hành với an sinh xã hội.
Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Để bảo đảm cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2026-2031 được tiến hành dân chủ, đúng pháp luật và thống nhất trên phạm vi cả nước, Hội đồng bầu cử quốc gia (HĐBCQG) được thành lập, giữ vai trò tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH); chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND). Việc tìm hiểu cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của HĐBCQG có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và cử tri thực hiện quyền làm chủ của mình, đồng thời giúp cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan thực hiện tốt nhiệm vụ trong công tác bầu cử.
Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Bài viết phân tích một số thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới của Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp.
Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ, ngành Tư pháp - Thành tựu đạt được và những yêu cầu trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ, ngành Tư pháp - Thành tựu đạt được và những yêu cầu trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Trong những năm qua, hoạt động nghiên cứu khoa học của Bộ Tư pháp đã khẳng định được vai trò cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn, giúp Lãnh đạo Bộ tham mưu với các cấp có thẩm quyền xây dựng các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác pháp luật, tư pháp, về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Theo dõi chúng tôi trên: