Thứ tư 19/11/2025 05:58
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Một số vấn đề liên quan đến người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng hình sự

Trước đó, ngày 24/4/2013 ông Nguyễn Văn Đ và bà Cao Thị H (là cha, mẹ ruột của cháu V) đã làm giấy ủy quyền và có xác nhận của Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND) xã B về việc đồng ý ủy quyền cho bà Đỗ Lệ Quyên, được đại diện cho ông Đ và bà H tham gia tố tụng trong vụ án này. Nội dung của giấy ủy quyền có ghi rõ:

Khoảng 17 giờ 05 phút ngày 12/3/2013 trên tỉnh lộ 790 thuộc tổ 7 xã Y, huyện G, tỉnh N, Trần Tuấn A, điều khiển xe ô tô, không có giấy phép lái xe, đã vượt sai quy định, nên va chạm với xe đạp đi cùng chiều do cháu Nguyễn Thị V (SN 1999) điều khiển, phía sau có chở cháu Trần Thị Mỹ Th (SN 2000), cả hai đang trên đường đi học về. Hậu quả vụ tai nạn, làm cháu Th bị thương tật theo kết luận giám định là 20%, cháu V bị tử vong vào ngày 13/3/2013 do chấn thương sọ não nặng. Viện kiểm sát nhân dân huyện G truy tố Trần Tuấn A về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo điểm a, khoản 2, Điều 202 Bộ luật Hình sự (BLHS).

Trước đó, ngày 24/4/2013 ông Nguyễn Văn Đ và bà Cao Thị H (là cha, mẹ ruột của cháu V) đã làm giấy ủy quyền và có xác nhận của Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND) xã B về việc đồng ý ủy quyền cho bà Đỗ Lệ Quyên, được đại diện cho ông Đ và bà H tham gia tố tụng trong vụ án này. Nội dung của giấy ủy quyền có ghi rõ:

“Bà Đỗ Lệ Quyên được toàn quyền đại diện chúng tôi tại cơ quan cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh N và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác để tham gia giải quyết phần hình sự và dân sự trong vụ việc nêu trên. Bà Quyên được toàn quyền quyết định các vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của chúng tôi trong vụ việc nêu trên. Ý kiến của bà Quyên trong phạm vi nêu trên cũng là ý kiến của chúng tôi. Chúng tôi cam đoan không khiếu nại về sau.

Thời hạn ủy quyền: Từ ngày lập giấy ủy quyền này cho đến khi vụ việc có kết quả giải quyết cuối cùng”.

Tiếp đến, ngày 30/7/2013, ông Nguyễn Văn Đ nhờ Luật sư Đinh Thế Th thuộc Đoàn Luật sư tỉnh N, tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách người bảo vệ quyền lợi của đương sự và được Tòa án nhân dân (TAND) huyện G, nơi đang thụ lý vụ án chấp nhận. Ngày 15/8/2013 TAND huyện G đưa vụ án ra xét xử, nhưng tại phiên Tòa sơ thẩm cả bà Quyên và ông luật sư Th đều vắng mặt. Sau khi xét xử sơ thẩm, do không đồng ý với quyết định của bản án về phần hình sự (mức án tuyên phạt đối với bị cáo là nhẹ), phần dân sự có liên quan (khoản bồi thường thiệt hại về bù đắp tổn thất về tinh thần chưa thỏa đáng) và cho rằng việc xét xử của Tòa án là thiếu khách quan, nên ngày 20/8/2013 ông Nguyễn Văn Đ có đơn kháng cáo gửi đến TAND huyện G với nội dung kháng cáo toàn bộ bản án mà TAND huyện G đã xét xử, qua xem xét Tòa án cấp sơ thẩm làm thủ tục tiếp nhận đơn kháng cáo của ông Đ theo quy định tại Điều 236 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Xoay quanh việc Tòa án cấp sơ thẩm làm thủ tục tiếp nhận đơn kháng cáo toàn bộ bản án do ông Nguyễn Văn Đ - Đại diện hợp pháp của người bị hại Nguyễn Thị V đứng đơn gửi đến TAND huyện G, là có đúng với quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành không? Xoay quanh các khía cạnh pháp lý này, hiện có các quan điểm trái chiều nhau, cụ thể như sau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Việc Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành làm thủ tục tiếp nhận đơn kháng cáo do ông Đ đứng đơn là đúng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự và việc ghi nhận nội dung đơn ông Đ kháng cáo toàn bộ bản án trong thông báo kháng cáo của TAND huyện G là phù hợp, không có gì trái pháp luật tố tụng.

Quan điểm thứ hai: Căn cứ vào phạm vi ủy quyền và thời hạn ủy quyền thể hiện trong giấy ủy quyền mà vợ chồng ông Nguyễn Văn Đ. và bà Cao Thị H. xác lập vào ngày 24/4/2013 có sự chứng kiến của Chủ tịch UBND xã B vẫn còn hiệu lực, thì chủ thể duy nhất có quyền kháng cáo lên TAND tỉnh H để xét xử theo trình tự phúc thẩm, chỉ có thể là bà Đỗ Lệ Quyên; phạm vi kháng cáo chỉ có thể là phần hình sự và dân sự có liên quan đến quyền và lợi ích cháu Nguyễn Thị V chứ không thể là kháng cáo toàn bộ bản án, như TAND huyện G đã chấp nhận. Những người ủng hộ quan điểm này cho rằng, vì phạm vi ủy quyền thể hiện trong văn bản ủy quyền có viết rõ: Bà Đỗ Lệ Quyên được toàn quyền đại diện cho vợ chồng ông Đ và bà H. tham gia tố tụng trong vụ án, tại Cơ quan cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh N và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác để tham gia giải quyến phần hình sự và dân sự trong vụ việc nêu trên. Bà Quyên được toàn quyền quyết định các vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của chúng tôi trong vụ việc nêu trên. Nên ông Đ không được tự mình thực hiện quyền kháng cáo khi chưa có sự đồng ý của bà Quyên, bởi lẽ ông Đ và bà H đã giao quyền này cho bà Quyên một cách tự nguyện, đúng pháp luật và công khai trước sự chứng kiến của lãnh đạo UBND xã và giấy ủy quyền đó vẫn còn nguyên giá trị (về đối tượng, phạm vi, nội dung, thời gian). Do vậy, nếu ông Đ muốn thay đổi sự ủy quyền thì cũng phải làm một thủ tục chấm dứt sự ủy quyền, tương tự như lúc làm giấy ủy quyền mới là phù hợp. Hơn nữa bản án của TAND huyện G xét xử vụ án này, có những nội dung không liên quan gì đến quyền và lợi ích hợp pháp của phía gia đình cháu V (ví dụ, các khoản bồi thường thiệt hại cho cháu Th, …) nên việc TAND huyện G ra thông báo kháng cáo theo hướng ghi nhận kháng cáo toàn bộ bản án như trình bày của ông Đ là tùy tiện và vi phạm tố tụng.

Quan điểm thứ ba: Đồng tình với quan điểm thứ hai nhưng có đặt thêm điều kiện để được coi là “hợp lệ” khi bà Đỗ Lệ Quyên thực hiện quyền kháng cáo, đó là vợ chồng ông Đ phải làm giấy ủy quyền cho bà Quyên đứng đơn kháng cáo. Để bảo vệ cho quan điểm này, họ lý giải:

Một là, thực tế nội dung ủy quyền mà vợ chồng ông Đ xác lập có sự chứng kiến của Chủ tịch UBND xã B, không có nội dung nào thể hiện bà Quyên được thay mặt vợ chồng ông Đ kháng cáo bản án, nên để bà Quyên thay vợ chồng ông Đ thực hiện quyền này, dứt khoát phải có giấy ủy quyền, mà theo đó vợ chồng ông Đ đồng ý ủy quyền cho bà Quyên đứng đơn kháng cáo, đương nhiên giấy ủy quyền này phải có công chứng, chứng thực;

Hai là, Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành không có điều luật cụ thể nào quy định về người đại diện theo ủy quyền, nên trong thực tiễn xét xử các vụ án hình sự, Tòa án thường vận dụng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự có liên quan để linh hoạt giải quyết, nhằm bảo đảm tối đa quyền lợi của đương sự khi tham gia tố tụng trong từng vụ án hình sự cụ thể[1]. Và Bộ luật này cũng có quy định: “Người đại diện theo uỷ quyền trong tố tụng dân sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự theo nội dung văn bản uỷ quyền”[2].

Từ quy định trên, để bảo đảm tính thống nhất trong nhận thức và áp dụng nội dung quy định về ủy quyền, ngày 04/8/2006 Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có ban hành Nghị quyết số 05/2006/NQ-HĐTP,hướng dẫn thi hành một số quy định tại phần thứ ba “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm” của Bộ luật Tố tụng dân sự, theo đó: “Việc uỷ quyền tại các tiểu mục 1.4, 1.5 và 1.6 mục 1 phần I của Nghị quyết này phải được làm thành văn bản có công chứng, chứng thực hợp pháp, trừ trường hợp văn bản uỷ quyền đó được lập tại Toà án có sự chứng kiến của Thẩm phán hoặc cán bộ Toà án được Chánh án Toà án phân công. Trong văn bản uỷ quyền phải có nội dung đương sự ủy quyền cho người đại diện theo uỷ quyền kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm”[3].

Chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ nhất, vì:

Thứ nhất, theo quy định tại Điều 231 Bộ luật Tố tụng hình sự thì những người có quyền kháng cáo, bao gồm: Bị cáo, người bị hại, người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm; người bào chữa có quyền kháng cáo để bảo vệ lợi ích của người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất; nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ; người bảo vệ quyền lợi của người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định của Toà án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ; người được Toà án tuyên bố là không có tội có quyền kháng cáo phần lý do bản án sơ thẩm đã tuyên là họ không có tội.

Nếu chỉ căn cứ vào quy định trên, chủ thể có quyền kháng cáo trong vụ án này, bao gồm: Đại diện hợp pháp của người bị hại Nguyễn Thị V là ông Nguyễn Văn Đ; bà Đỗ Lệ Quyên – Người được vợ chồng ông Đ và bà H ủy quyền tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách là người đại diện theo ủy quyền; Luật sư Đinh Thế Th – Người bảo vệ quyền lợi cho đương sự theo đề nghị của phía gia đình ông Đ. Nhưng đối chiếu với hướng dẫn tại Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08/12/2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ tư “Xét xử phúc thẩm” của Bộ luật Tố tụng hình sự, có hướng dẫn áp dụng Điều 231 Bộ luật Tố tụng hình sự, quy định: Chủ thể có quyền kháng cáo và giới hạn của việc kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm được xác định như sau: “Người bị hại, người đại diện hợp pháp (đại diện theo pháp luật) của người bị hại trong trường hợp người bị hại chết hoặc trong trường hợp người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo toàn bộ bản án hoặc quyết định sơ thẩm theo hướng có lợi cho bị cáo hoặc theo hướng làm xấu hơn tình trạng của bị cáo. Trong trường hợp người bị hại chỉ kháng cáo phần bản án hoặc quyết định sơ thẩm có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại, thì họ có thể uỷ quyền cho người khác. Người được uỷ quyền có các quyền và nghĩa vụ như người đại diện hợp pháp của nguyên đơn dân sự”[4].

Từ quy định này có thể khẳng định rằng: Bà Đỗ Lệ Quyên không thể đứng đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm của TAND huyện G xét xử vụ án này, theo hướng có lợi hoặc làm xấu hơn tình trạng của bị cáo, mà bà Quyên chỉ có thể đứng đơn kháng cáo trong trường hợp khi cháu Nguyễn Thị V còn sống và chỉ được kháng cáo trong giới hạn phần bản án hoặc quyết định sơ thẩm có liên quan đến việc bồi thường thiệt hại. Nghĩa là, bà Quyên không được kháng cáo toàn bộ bản án, và khi đó bà Quyên (người được ủy quyền) có các quyền và nghĩa vụ như người đại diện hợp pháp của nguyên đơn dân sự.

Do vậy, theo chúng tôi, quyền kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm của TAND huyện G xét xử đối với bị cáo Trần Tuấn A về “Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo điểm a khoản 2 Điều 202 BLHS, chỉ có thể là ông Nguyễn Văn Đ (Đại diện hợp pháp của người bị hại Nguyễn Thị V đã chết), mà không thể là một ai khác.

Thứ hai, dù trên thực tế vợ chồng ông Đ đã ủy quyền cho bà Quyên thay mình tham gia tố tụng tại các cơ quan tiến hành tố tụng của huyện G và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác để tham gia giải quyết phần hình sự và dân sự trong vụ án nêu trên;… điều đó không có nghĩa là vợ chồng ông Đ đã mất đi quyền năng pháp lý có tính xuyên suốt trong các giai đoạn tố tụng mà pháp luật tố tụng hình sự dành cho họ. Thực tiễn xét xử, tại phiên tòa thường gặp nhiều tình huống mà bên ủy quyền đưa ra ý kiến trái ngược với phạm vi ủy quyền mà bên nhận ủy quyền đã thực hiện, với những trường hợp như vậy vẫn được Hội đồng xét xử (HĐXX) chấp nhận, chẳng hạn: Giả sử theo thỏa thuận ban đầu giữa vợ chồng ông Đ với bà Quyên, mà theo đó, sau khi tranh luận với Kiểm sát viên, bà Quyên đề nghị HĐXX tuyên phạt đối với bị cáo A, thấp nhất là 04 năm tù giam, đồng thời đề nghị buộc bị cáo phải bồi thường thiệt hại cho cháu V, số tiền tương ứng 100 triệu đồng. Như tại phiên tòa, ông Đ vẫn có quyền đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo được hưởng án treo và mức bồi thường thiệt hại ít hơn hoặc nhiều hơn số tiền mà trước đó ông Đ và bà Quyên đã thống nhất, mà không cần phải hỏi ý kiến của bà Quyên. Ngay cả trường hợp, theo nội dung ủy quyền bà Quyên sẽ là người tham gia tranh luận với các bên tại phiên tòa, nhưng có thể vì lý do nào đó tại phiên tòa, ông Đ thay bà Quyên làm việc này, mà cũng không cần phải có sự đồng ý của bà Quyên, ông Đ mới được làm.

Thứ ba, về thời hạn thực hiện công việc được ủy quyền, theo như Giấy ủy quyền được các bên xác lập ngày 24/4/2013 thể hiện toàn bộ nội dung ủy quyền có hiệu lực từ ngày lập giấy ủy quyền cho đến khi vụ án có kết quả giải quyết cuối cùng. Điều này có nghĩa là người nhận ủy quyền không chỉ thực hiện công việc được ủy quyền ở cấp sơ thẩm, phúc thẩm mà ngay cả khi bản án, quyết định có thể được xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm và cả khâu thi hành án sau này (nếu có). Giả sử theo thỏa thuận thì bà Quyên sẽ là người đứng đơn kháng cáo bản án sơ thẩm, nếu như những đề nghị của phía họ không được Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận đầy đủ, nhưng thực tế do bà Quyên và cả luật sự Th không có mặt để tham gia tố tụng tại phiên Tòa hình sự sơ thẩm vào ngày 15/8/2013, thì việc ông Đ tự mình nộp đơn kháng cáo để bảo vệ quyền lợi ích của con mình là điều cũng dễ hiểu, vì suy cho cùng việc quyết định có kháng cáo hay không là hoàn toàn tùy thuộc vào ý chí của vợ chồng ông Đ, nghĩa là không chịu bất kỳ sự ràng buộc nào. Do vậy, không thể cho rằng vì vợ chồng ông Đ đã đồng ý bằng văn bản ủy quyền cho bà Đỗ Lê Quyên thay mình tham gia tố tụng trong vụ án cho đến khi có kết quả cuối cùng thì đồng nghĩa với việc quyền kháng cáo của họ bị triệt tiêu.

Lê Văn Sua

Tòa án quân sự khu vực 1 – Quân khu 9


[1]Điều 73, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2012).

[2]Khoản 2, Điều 74, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2012).

[3]Tiểu mục 1.8, mục 1, phần I, Nghị quyết số 05/2006/NQ-HĐTP ngày 04/8/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định phần thứ ba “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm” của Bộ luật Tố tụng dân sự .

[4]Tiểu mục 1.3, mục 1, phần 1 Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08/12/2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ tư “Xét xử phúc thẩm” của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Trường Cao đẳng Luật miền Bắc được nâng cấp từ Trường Trung cấp Luật Thái Nguyên theo Quyết định số 869/QĐ-LĐTBXH ngày 10/7/2020 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (nay là Bộ Nội vụ), đã kế thừa hơn một thập kỷ kinh nghiệm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ pháp lý cấp cơ sở, đặc biệt, tại khu vực trung du và miền núi phía Bắc.
Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Bộ Tư pháp đã trang bị, bổ sung, ứng dụng các công nghệ mới như máy chủ ảo hóa, lưu trữ SAN; máy chủ ứng dụng, máy chủ cơ sở dữ liệu cho Trung tâm dữ liệu điện tử để đáp ứng yêu cầu quản lý, vận hành và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp.
Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Bài viết về những thành tựu nổi bật và định hướng phát triển công tác hành chính tư pháp trong thời gian tới.
Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Tạp chí) là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, có chức năng thông tin về khoa học pháp lý, thông tin lý luận, nghiệp vụ và thực tiễn trong xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp của Bộ, ngành Tư pháp; tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước theo quy định pháp luật; đồng thời, là diễn đàn trao đổi học thuật, thực tiễn và chính sách trong lĩnh vực pháp luật[1].
Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Để bảo đảm cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2026-2031 được tiến hành dân chủ, đúng pháp luật và thống nhất trên phạm vi cả nước, Hội đồng bầu cử quốc gia (HĐBCQG) được thành lập, giữ vai trò tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH); chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND). Việc tìm hiểu cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của HĐBCQG có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và cử tri thực hiện quyền làm chủ của mình, đồng thời giúp cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan thực hiện tốt nhiệm vụ trong công tác bầu cử.
Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Bài viết phân tích một số thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới của Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp.
Trợ giúp pháp lý - Điểm tựa pháp lý cho tuổi vị thành niên lầm lỡ

Trợ giúp pháp lý - Điểm tựa pháp lý cho tuổi vị thành niên lầm lỡ

Lứa tuổi vị thành niên là giai đoạn các em đang hình thành nhân cách, dễ bồng bột, thiếu kỹ năng kiểm soát cảm xúc và nhận thức pháp luật còn hạn chế. Nếu không được định hướng, các em rất dễ sa vào những hành vi vi phạm pháp luật đáng tiếc. Chỉ một phút nóng giận, một quyết định bồng bột… cũng đủ khiến tuổi trẻ phải trả giá bằng cả những tháng ngày sau song sắt. Thế nhưng, trong câu chuyện buồn ấy, vẫn có một điểm sáng nhân văn - đó là bàn tay nâng đỡ của trợ giúp pháp lý miễn phí, để một thiếu niên lầm lỡ có cơ hội sửa sai và làm lại từ đầu.
Lịch trình pháp lý cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031

Lịch trình pháp lý cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031

Bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH) và đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND) là sự kiện chính trị trọng đại, được tiến hành theo trình tự chặt chẽ, bảo đảm dân chủ, bình đẳng và đúng pháp luật. Trong tiến trình ấy, Luật Bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND (Luật Bầu cử) quy định cụ thể các mốc thời gian thực hiện. Đây vừa là cơ sở bảo đảm tính logic, vừa là căn cứ cho sự minh bạch và thống nhất trong toàn bộ quy trình. Lịch trình pháp lý được xác định trên cơ sở ngày bầu cử đã được ấn định cho mỗi kỳ bầu cử.
Dấu mốc quan trọng tạo lập khung pháp lý cho thị trường tài sản mã hóa

Dấu mốc quan trọng tạo lập khung pháp lý cho thị trường tài sản mã hóa

Ngày 09/9/2025, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 05/2025/NQ-CP về việc triển khai thí điểm thị trường tài sản mã hóa tại Việt Nam. Nghị quyết được ban hành đánh dấu bước đi quan trọng tạo khung khổ pháp lý để quản lý, kiểm soát chặt chẽ, minh bạch hóa thị trường tài sản mã hóa, hướng tới định hình thị trường tài sản số.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Cần kịp thời hoàn thiện và tổ chức thực hiện hiệu quả chính sách pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Cần kịp thời hoàn thiện và tổ chức thực hiện hiệu quả chính sách pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc triển khai Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 22/01/2019 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và trách nhiệm quản lý của Nhà nước đối với công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng vẫn còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế nhất định, đòi hỏi phải kịp thời hoàn thiện chính sách pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
14 trường hợp được miễn học phí từ năm học 2025-2026

14 trường hợp được miễn học phí từ năm học 2025-2026

Đây là một trong những điểm mới đáng chú ý trong chính sách miễn, giảm, hỗ trợ học phí, hỗ trợ chi phí học tập của Chính phủ.
HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở HÀ TĨNH THÁCH THỨC VÀ YÊU CẦU ĐỔI MỚI TỪ THỰC TIỄN

HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở HÀ TĨNH THÁCH THỨC VÀ YÊU CẦU ĐỔI MỚI TỪ THỰC TIỄN

Trợ giúp pháp lý là chính sách nhân văn sâu sắc, thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đặc biệt là những người yếu thế trong xã hội, người có công với cách mạng. Đồng thời, đây cũng là công cụ quan trọng nhằm bảo đảm công lý, để mọi người dân đều được tiếp cận pháp luật bình đẳng, góp phần hiện thực hóa mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Giải pháp khắc phục vướng mắc trong sử dụng Phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch phục vụ vận hành chính quyền địa phương 02 cấp

Giải pháp khắc phục vướng mắc trong sử dụng Phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch phục vụ vận hành chính quyền địa phương 02 cấp

Ngày 15/8/2025, Bộ Tư pháp đã có Văn bản số 5006/BTP-HCTP về giải pháp khắc phục các khó khăn, vướng mắc trong sử dụng Phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch phục vụ vận hành chính quyền địa phương 02 cấp gửi Văn phòng Trung ương Đảng, trong đó, xác định rõ nguyên nhân và những giải pháp để kịp thời khắc phục các khó khăn, vướng mắc.
Thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, biện pháp đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, biện pháp đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Theo Pháp lệnh số 08/2025/UBTVQH15 được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 27/6/2025, kể từ ngày 01/7/2025, Tòa án nhân dân khu vực có thẩm quyền theo lãnh thổ tiếp nhận nhiệm vụ xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân, đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng mà Tòa án nhân dân cấp huyện đang giải quyết.
Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3, tỉnh Lào Cai quyết tâm bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người dân sau sáp nhập

Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3, tỉnh Lào Cai quyết tâm bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người dân sau sáp nhập

Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3, tỉnh Lào Cai được thành lập ngày 01/7/2025 trên cơ sở hợp nhất Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3 huyện Văn Bàn (cũ) và Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 4 huyện Bảo Yên (cũ). Từ khi được thành lập, Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3 thích ứng mô hình chính quyền địa phương hai cấp, bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người dân sau sáp nhập.

Theo dõi chúng tôi trên:

he-thong-benh-vien-quoc-te-vinmec
nha-hang-thai-village
delta-group
khach-san-ladalat
trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
truong-dai-hoc-y-duoc-dai-hoc-quoc-gia-ha-noi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm
cong-ty-co-phan-loc-hoa-dau-binh-son
sofitel-legend-metropole-ha-noi