Thi hành án dân sự là giai đoạn cuối cùng của hoạt động tố tụng dân sự, bảo đảm cho bản án, quyết định của tòa án được chấp hành nghiêm. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 được thông qua chứa đựng nhiều điểm mới, tiến bộ như bổ sung một số nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, hoàn thiện hơn quy trình tố tụng, quyền và nghĩa vụ của đương sự được quy định rõ ràng, việc thực hiện quyền, nghĩa vụ bảo đảm tính thực tế, đương sự phát huy được quyền đưa ra chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình, bảo đảm quyền tranh luận tại phiên tòa, qua đó các quyền con người, quyền công dân trong pháp luật tố tụng dân sự được bảo đảm theo đúng với tinh thần của Hiến pháp năm 2013. Những điểm mới của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã có những tác động không nhỏ đến công tác thi hành án dân sự, điều này được tác giả phân tích kỹ trong bài viết, đồng thời nêu ra một số hạn chế đang tồn tại của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đối với công tác thi hành án.
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 được thông qua chứa đựng nhiều điểm mới, tiến bộ như bổ sung một số nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, hoàn thiện hơn quy trình tố tụng, quyền và nghĩa vụ của đương sự được quy định rõ ràng, việc thực hiện quyền, nghĩa vụ bảo đảm tính thực tế, đương sự phát huy được quyền đưa ra chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình, bảo đảm quyền tranh luận tại phiên tòa, qua đó các quyền con người, quyền công dân trong pháp luật tố tụng dân sự được bảo đảm theo đúng với tinh thần của Hiến pháp năm 2013.
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 được Quốc hội thông qua cùng với các bộ luật và luật lớn khác như Bộ luật Dân sự năm 2015, Bộ luật Hình sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Luật Tố tụng hành chính năm 2015… tạo ra một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về nội dung và hình thức đáp ứng được yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật trong thời kỳ đất nước đổi mới, tham gia sâu rộng vào các quan hệ pháp lý quốc tế.
Đối với công tác thi hành án dân sự, khi Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 ra đời với những quy định mới sẽ giúp cho công tác này khắc phục được nhiều khó khăn, vướng mắc từ thực tiễn đặt ra.
1. Một số quy định mới của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 tác động đến công tác thi hành án dân sự
1.1. Quy định những tranh chấp và yêu cầu về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã tiếp thu, kế thừa Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2011 bổ sung quy định những tranh chấp và yêu cầu dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án tạo hành lang pháp lý theo hướng mở rộng phạm vi các tranh chấp, yêu cầu dân sự phát sinh trong quá trình tổ chức thi hành án dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, từ đó cơ quan thi hành án dân sự có thể yêu cầu hoặc hướng dẫn cho đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong giai đoạn thi hành án quyền khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết, phục vụ cho công tác thi hành án dân sự, cụ thể:
- Khoản 12, khoản 13 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định những tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án:
“12. Tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
13. Tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản, thanh toán phí tổn đăng ký mua tài sản bán đấu giá theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự”.
Tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế trên thực tế thường phát sinh dưới các dạng sau: Tranh chấp với bên thứ ba về quyền sử hữu tài sản hoặc tài sản cưỡng chế bị đưa vào tham gia các giao dịch dân sự với bên thứ ba (như bán, chuyển nhượng, thế chấp, cầm cố, tặng cho…) nhằm mục đích tẩu tán, trốn tránh thực hiện nghĩa vụ của bên phải thi hành án. Quy định trên hoàn toàn phù hợp và hỗ trợ cho Điều 75 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) về giải quyết tranh chấp, yêu cầu hủy giấy tờ, giao dịch liên quan đến tài sản thi hành án.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014), Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản thì tài sản bán đấu giá thành sẽ được Nhà nước bảo đảm giao cho người trúng đấu giá, kể cả trong trường hợp sau đó bản án, quyết định của Tòa án bị tuyên hủy, sửa đổi (theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm) hoặc áp dụng biện pháp cưỡng chế để giao tài sản cho người trúng bán đấu giá, trừ trường hợp thủ tục bán đấu giá vi phạm theo quy định của pháp luật về bán đấu giá.
Tranh chấp về phí tổn trong bán đấu giá thuộc phạm vi giải quyết việc dân sự của Tòa án hoàn toàn phù hợp và hỗ trợ cho khoản 5 Điều 101 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) quy định về bán tài sản kê biên.
- Khoản 9 Điều 27 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định những yêu cầu về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án: “Yêu cầu xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản, phân chia tài sản chung để thi hành án và yêu cầu khác theo quy định của Luật Thi hành án dân sự”.
Quy định này thường được áp dụng trong trường hợp cơ quan thi hành án dân sự xử lý tài sản mà người phải thi hành án có quyền sở hữu chung với người khác như tài sản chung vợ chồng, vốn góp tại doanh nghiệp... Quy định này hoàn toàn phù hợp và hỗ trợ cho khoản 1 Điều 74 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) về xác định, phân chia, xử lý tài sản chung để thi hành án.
1.2. Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ
Song song với việc mở rộng phạm vi các tranh chấp, yêu cầu về dân sự phát sinh trong quá trình thi hành án dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án để cơ quan thi hành án dân sự, đương sự thực hiện quyền khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết, điểm n khoản 2 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định về thẩm quyền giải quyết việc dân sự của Tòa án theo lãnh thổ được xác định như sau: “Tòa án nơi cơ quan thi hành án có thẩm quyền thi hành án có trụ sở hoặc nơi có tài sản liên quan đến việc thi hành án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản, phân chia tài sản chung để thi hành án và yêu cầu khác theo quy định của Luật Thi hành án dân sự”.
1.3. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời
Quy định nhiều biện pháp mới từ khoản 13 đến khoản 16 Điều 114 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, theo đó, bổ sung khoản 13 Điều 114 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015: “13. Cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ”. Về cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ được quy định cụ thể tại Điều 128 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Biện pháp khẩn cấp tạm thời có ý nghĩa với việc công tác thi hành án, vì thông qua áp dụng biện pháp cấm xuất cảnh sẽ góp phần ngăn ngừa tình trạng người có nghĩa vụ trong giai đoạn xét xử, khi bản án, quyết định có hiệu lực thường trở thành người phải thi hành án trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ, qua đó, tăng cường ý thức, trách nhiệm về thực hiện nghĩa vụ và làm cơ sở cho việc áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án sau này.
1.4. Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
Khi Tòa án xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, Tòa có thẩm quyền giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Tòa án cấp dưới đã bị hủy hoặc bị sửa; hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải quyết vụ án; sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật (quy định tại các điều 344, 346, 347 và 357 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015).
Số lượng bản án, quyết định của Tòa án qua giám đốc thẩm, tái thẩm bị hủy, sửa tuy không nhiều nhưng trên cơ sở bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các bên đương sự, bảo đảm công bằng xã hội, cần quy định rõ trách nhiệm của Tòa án phải giải quyết đối với vụ việc đang thi hành hoặc đã thi hành xong bản án, quyết định nhưng sau đó bị hủy, sửa là rất cần thiết. Theo đó, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định, trường hợp bản án, quyết định của Tòa án đã thi hành được một phần hoặc toàn bộ thì hội đồng xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm phải giải quyết “hậu quả” của việc thi hành án. Đây là cơ sở pháp lý để cơ quan thi hành án dân sự tiếp tục tổ chức thi hành vụ việc theo phán quyết của Tòa án.
1.5. Thủ tục giải quyết việc dân sự
Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) ghi nhận chấp hành viên, đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự phát sinh trong quá trình tổ chức thi hành án. Tuy nhiên, pháp luật về tố tụng dân sự trước đây chưa có quy định cụ thể, rõ ràng trình tự, thủ tục thực hiện, nên chấp hành viên, đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gặp nhiều khó khăn, lúng túng khi yêu cầu Tòa án thụ lý và giải quyết.
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 bổ sung một số quy định mới tại Chương XXIII từ Điều 361 đến Điều 375 như thủ tục nhận và xử lý đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự, các trường hợp trả lại đơn, thông báo thụ lý đơn, chuẩn bị xét xử, gửi quyết định giải quyết việc dân sự, thủ tục kháng cáo, kháng nghị quyết định giải quyết việc dân sự. Với quy định mới tại Chương XXIII Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về trình tự, thủ tục, thời hạn yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự và thủ tục tố tụng tại Tòa án được quy định cụ thể tạo điều kiện thuận lợi cho chấp hành viên, đương sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan thực hiện quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự phát sinh trong quá trình tổ chức thi hành án.
1.6. Thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án
Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự, tại Điều 5 về thỏa thuận thi hành án quy định, đương sự có thể thỏa thuận việc thi hành án khi bản án, quyết định có hiệu lực; sau khi cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án để tổ chức thi hành, đương sự có quyền yêu cầu chấp hành viên chứng kiến thỏa thuận và tổ chức thi hành theo nội dung thỏa thuận nếu thỏa thuận không vi phạm điều cấm của pháp luật, đạo đức xã hội hoặc không làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba hoặc nhằm trốn tránh phí thi hành án (trong quy trình giải quyết tranh chấp về đất đai thì thủ tục hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã phải được thực hiện, nếu hòa giải không thành mới đưa tranh chấp ra Tòa án giải quyết).
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã bổ sung quy định mới có tác dụng hỗ trợ cho công tác thi hành án dân sự, Điều 416 về công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án quy định: “Kết quả hòa giải vụ việc ngoài Tòa án được Tòa án xem xét ra quyết định công nhận là kết quả hòa giải thành vụ việc xảy ra giữa cơ quan, tổ chức, cá nhân do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền có nhiệm vụ hòa giải đã hòa giải thành theo quy định của pháp luật về hòa giải”
Thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án được quy định rất cụ thể tại Điều 419 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Trong nhiều vụ việc có tính chất phức tạp, chấp hành viên nhận thấy các bên đương sự thỏa thuận thi hành án chứa đựng nhiều nội dung vượt quá khả năng của mình khi đánh giá tính chất pháp lý của thỏa thuận, trong trường hợp này, chấp hành viên có thể hướng dẫn cho đương sự quyền yêu cầu Tòa án thực hiện thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án làm cơ sở cho việc tiếp tục tổ chức thi hành án, ví dụ như trong lĩnh vực pháp luật về sở hữu trí tuệ, chuyển giao dây chuyền máy móc, công nghệ cao, các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài có thể chịu sự điều chỉnh của pháp luật nước ngoài (dẫn chiếu pháp luật nước ngoài điều chỉnh)…
2. Một số hạn chế, tồn tại của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đối với công tác thi hành án dân sự
Thứ nhất, khoản 1 Điều 362 Bộ luât Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “… Trường hợp chấp hành viên yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự theo quy định của Luật Thi hành án dân sự thì có quyền, nghĩa vụ của người yêu cầu giải quyết việc dân sự theo quy định của Bộ luật này”. Quy định này bộc lộ một số hạn chế sau:
- Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 chưa quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ của người yêu cầu giải quyết việc dân sự như đối với nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan (quyền và nghĩa vụ được quy định từ Điều 70 đến Điều 73). Điều này sẽ tạo khó khăn cho chấp hành viên, người yêu cầu giải quyết việc dân sự trong quá trình tham gia tố tụng.
- Quy định địa vị pháp lý của chấp hành viên khi yêu cầu giải quyết việc dân sự giống với người yêu cầu giải quyết việc dân sự khác “hoàn toàn không phù hợp”, vì chấp hành viên là người được Nhà nước giao nhiệm vụ tổ chức thi hành các bản án, quyết định, công tác của chấp hành viên mang tính chất quyền lực nhà nước (thực thi công vụ). Do đó, phải có cơ chế pháp lý phù hợp hơn, hiệu quả hơn khi chấp hành viên yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự liên quan đến công tác thi hành án.
Thứ hai, một số quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) cùng quy định về một vấn đề còn khác nhau:
- Quy định về trường hợp những bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm được thi hành ngay, mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị tại khoản 2 Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) và khoản 2 Điều 482 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 bổ sung thêm một số trường hợp bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm được thi hành ngay, mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị gồm: Khoản về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế, quyết định về tính hợp pháp của cuộc đình công.
- Thời hạn Tòa án trả lời kiến nghị của cơ quan thi hành án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm tại khoản 2 Điều 170 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) (không quá 90 ngày) và Điều 487 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (không quá 3 tháng, trường hợp phức tạp không quá 4 tháng).
Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Bình