Chủ nhật 08/06/2025 10:52
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Những vướng mắc trong việc cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính

Pháp luật về xử lý vi phạm hành chính là một trong những công cụ pháp lý quan trọng của các cơ quan thực thi pháp luật trong công tác đấu tranh, xử lý các hành vi vi phạm hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước. Tuy nhiên, quá trình triển khai áp dụng, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) và các nghị định hướng dẫn thi hành đã bộc lộ một số vướng mắc, bất cập, gây khó khăn cho công tác thực thi pháp luật của các cơ quan chức năng trên nhiều lĩnh vực, trong đó có vấn đề về tổ chức cưỡng chế để thi hành các quyết định xử phạt vi phạm hành chính.

Ngày 12/11/2013, Chính phủ ban hành Nghị định số 166/2013/NĐ-CP quy định về cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính (VPHC) (Nghị định số 166/2013/NĐ-CP). Nghị định đã quy định tương đối cụ thể về nguyên tắc, trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp cưỡng chế cũng như thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế, tạo cơ sở pháp lý quan trọng và điều kiện thuận lợi cho các bộ, ngành, Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp trong việc thực hiện nghiêm túc các quy định về cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt VPHC của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Tuy nhiên, thực tiễn tổ chức thực hiện các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt VPHC của các bộ, ngành, UBND các cấp thời gian qua đã bộc lộ một số khó khăn, vướng mắc, nhiều nội dung cần phải bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn như về lực lượng, cơ sở vật chất, phương tiện phục vụ việc cưỡng chế; về chi phí dành cho công tác cưỡng chế; về cơ chế phối hợp giữa các lực lượng trong tổ chức cưỡng chế và một số bất cập trong các biện pháp cưỡng chế, cụ thể:

Thứ nhất, quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục thi hành cưỡng chế quyết định xử phạt VPHC còn bất cập, không rõ ràng, không thống nhất với các quy định của các ngành luật khác.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 86 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và khoản 43 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung năm 2020: “Cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt được áp dụng trong các trường hợp sau đây: a) Cá nhân, tổ chức bị xử phạt VPHC không tự nguyện chấp hành quyết định xử phạt theo quy định tại Điều 73 của Luật này…”; khoản 1 Điều 73 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định việc thi hành quyết định xử phạt VPHC như sau: “Cá nhân, tổ chức bị xử phạt VPHC phải chấp hành quyết định xử phạt trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận quyết định xử phạt VPHC; trường hợp quyết định xử phạt VPHC có ghi thời hạn thi hành nhiều hơn 10 ngày thì thực hiện theo thời hạn đó. Trường hợp cá nhân, tổ chức bị xử phạt khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định xử phạt VPHC thì vẫn phải chấp hành quyết định xử phạt, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 15 của Luật này. Việc khiếu nại, khởi kiện được giải quyết theo quy định của pháp luật” và khoản 3 Điều 15 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định: “Trong quá trình giải quyết khiếu nại, khởi kiện nếu xét thấy việc thi hành quyết định xử lý VPHC bị khiếu nại, khởi kiện sẽ gây hậu quả khó khắc phục thì người giải quyết khiếu nại, khởi kiện phải ra quyết định tạm đình chỉ việc thi hành quyết định đó theo quy định của pháp luật”. Như vậy, về nguyên tắc của pháp luật xử lý VPHC, khi quyết định xử phạt có hiệu lực thi hành, người vi phạm phải tự nguyện thi hành quyết định xử phạt, nếu không tự nguyện thi hành thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ tiến hành ra quyết định cưỡng chế để thi hành quyết định xử phạt đó, trừ trường hợp khi có quyết định tạm đình chỉ việc thi hành quyết định xử phạt VPHC của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, khởi kiện.

Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, có nhiều trường hợp cá nhân, tổ chức VPHC không tự nguyện thi hành quyết định đúng thời hạn sẽ bị đề nghị cưỡng chế, nhưng cũng trong thời gian đó, họ thực hiện quyền khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định xử phạt VPHC và thời hiệu, thời hạn, trình tự, thủ tục khiếu nại, khởi kiện được thực hiện theo quy định tại Luật Khiếu nại hoặc Luật Tố tụng hành chính. Do đó, trên thực tế, để tổ chức thi hành quyết định xử phạt VPHC trong những trường hợp này là khó khăn vì nhiều tổ chức, cá nhân cho rằng khi họ đang thực hiện quyền khiếu nại, khởi kiện và đã được các cơ quan đang tiến hành thụ lý giải quyết nên cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền đã ra quyết định xử phạt VPHC không được tổ chức cưỡng chế đối với việc xử phạt đó mà phải chờ kết quả giải quyết theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố tụng hành chính.

Qua một số vụ việc trên thực tế, các cơ quan đang thụ lý giải quyết vụ việc theo thủ tục, thẩm quyền nhưng lại không ra quyết định tạm đình chỉ việc thi hành quyết định bị khiếu nại, khởi kiện vì nhiều lý do khác nhau, do đó, cơ quan có thẩm quyền tiến hành cưỡng chế không có cơ sở để tạm dừng hoặc dừng việc cưỡng chế theo quy định. Bên cạnh đó, pháp luật cũng chưa quy định rõ là người có thẩm quyền có được tiến hành cưỡng chế để thi hành quyết định xử phạt VPHC hay không hay phải chờ đến khi có kết quả giải quyết. Trên thực tế, nếu chờ kết quả giải quyết thì có một số trường hợp sẽ bị kéo dài thời hạn mất vài năm, nhất là các vụ việc khởi kiện hành chính cần phải chờ kết quả xét xử theo thủ tục phúc thẩm hoặc có khi là giám đốc thẩm nếu như người vi phạm tiếp tục thực hiện quyền kháng cáo theo quy định. Điều này đặt ra yêu cầu phải sửa đổi pháp luật về xử lý VPHC để có cơ sở pháp lý rõ ràng và bảo đảm tính thống nhất với các ngành luật khác có liên quan như Luật Khiếu nại, Luật Tố tụng hành chính.

Thứ hai, một số quy định về trình tự, thủ tục tiến hành cưỡng chế còn thiếu tính khả thi, không phù hợp với thực tiễn.

Một vấn đề vướng mắc trong hình thức là việc pháp luật quy định người thi hành quyết định cưỡng chế phải thực hiện đúng trình tự, thủ tục xác minh tài khoản để khấu trừ theo đúng mẫu biên bản số 09 ban hành kèm theo Nghị định số 118/2021/NĐ-CP ngày 23/12/2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính. Trong đó, biên bản xác minh tài sản để xác định điều kiện thi hành quyết định cưỡng chế theo phương thức khấu trừ tiền từ tài khoản phải có cả cá nhân, người đại diện của tổ chức có thông tin phải xác minh; cá nhân, người đại diện của tổ chức cung cấp thông tin xác minh phải cùng ký vào biên bản xác minh là không phù hợp trên thực tế. Bởi vì, việc xác minh thông tin về tiền, tài sản của đối tượng bị cưỡng chế là hoạt động nghiệp vụ của người có thẩm quyền ra quyết định cưỡng chế. Trường hợp nếu thực hiện theo quy định, hướng dẫn như trên sẽ dẫn đến việc cá nhân, tổ chức biết được mục đích của việc xác minh, những người vi phạm có thể sẽ rút hết tiền trong tài khoản trước khi người có thẩm quyền ban hành quyết định cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt VPHC. Còn nếu như biên bản xác minh không đúng theo yêu cầu, thành phần như hướng dẫn thì việc xác minh đó là không đúng quy định của pháp luật. Ngoài ra, có một số trường hợp tổ chức, cá nhân cố tình không cung cấp thông tin về tài khoản của mình, còn tổ chức tín dụng, ngân hàng vì lý do bảo mật khách hàng nên cũng không cung cấp thông tin của khách hàng nên việc xác minh là hết sức khó khăn và pháp luật chưa có quy định về trường hợp cá nhân, đại diện tổ chức vi phạm không đến tham gia lập biên bản xác minh thì xử lý như thế nào. Bên cạnh đó, việc xác minh tài khoản cũng khá phức tạp, mất nhiều thời gian trong trường hợp cá nhân hoặc tổ chức VPHC có nhiều tài khoản ở nhiều tổ chức tín dụng có trụ sở/chi nhánh/phòng giao dịch ở nhiều tỉnh, thành phố khác nhau hoặc như vấn đề vướng mắc về trách nhiệm phối hợp, cung cấp thông tin của Ngân hàng nhà nước và các ngân hàng thương mại với cơ quan được giao thi hành quyết định cưỡng chế phải thực hiện theo cơ chế như thế nào pháp luật vẫn chưa quy định cụ thể nên gần như người tiến hành xác minh chưa thể thực hiện được.

Thứ ba, có tài sản, điều kiện nhưng không thể cưỡng chế để thi hành quyết định xử phạt.

Dưới đây là một ví dụ về trường hợp này dựa trên thực tiễn:

Ngày 12/4/2023, khi tuần tra, cơ quan công an tỉnh B phát hiện ông L thường trú tại số nhà 40 đường C thành phố Q tỉnh B có hành vi vi phạm điều khiển xe trên đường mà trong cơ thể có chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 10 Điều 5 Nghị định số 100/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực đường bộ và đường sắt. Sau khi hoàn thiện hồ sơ, cơ quan công an tỉnh B đã trình Chủ tịch UBND tỉnh B ra quyết định xử phạt đối với ông L với số tiền là 35 triệu đồng, còn chiếc xe là ông thuê của dịch vụ Y nên cơ quan đã trả lại.

Sau khi quyết định xử phạt có hiệu lực thi hành, cơ quan công an nhiều lần mời ông L lên làm việc, động viên ông tự nguyện thi hành quyết định xử phạt là nộp số tiền 35 triệu đồng vào tài khoản Kho bạc nhà nước như trong quyết định đã ghi. Tuy nhiên, ông L không những không thi hành mà còn tỏ vẻ thách thức với người giải quyết vụ việc. Do không tự nguyện thi hành nên cơ quan công an tỉnh B đã tiến hành các thủ tục để thi hành quyết định xử phạt.

Qua xác minh, ông L không có nghề nghiệp ổn định chỉ phụ vợ bán hải sản tươi sống tại nhà, không có thu nhập cố định, không mở tài khoản ở bất kỳ ngân hàng, tổ chức tín dụng nào, về tài sản thì gia đình ông có vựa hải sản lớn nhưng do vợ ông đứng tên kinh doanh và một ngôi nhà mặt tiền đường C trị giá trên 10 tỷ đồng. Tuy nhiên, cơ quan công an vẫn chưa thể thi hành quyết định xử phạt được, bởi, vấn đề vướng mắc ở đây là việc quy định của pháp luật đối với trường hợp áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản để thi hành quyết định cưỡng chế. Tại khoản 2 Điều 18 Nghị định số 166/2013/NĐ-CP quy định: “Chỉ được kê biên tài sản của cá nhân, tổ chức bị cưỡng chế tương ứng với số tiền đã ghi trong quyết định xử phạt, quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả và chi phí cho việc tổ chức thi hành cưỡng chế”. Trong tình huống này, ông L là đối tượng phải thi hành quyết định xử phạt VPHC có tài sản và tài sản đó có giá trị lớn hơn mức tiền phạt nhiều lần nhưng cơ quan có thẩm quyền cũng không thể kê biên được do không xác định được giá trị tương ứng là bao nhiêu, trong phạm vi nào của khối tài sản đó; đồng thời, tài sản của ông L lại là tài sản chung trong khối tài sản chung của cha, mẹ, vợ, con nên cơ quan công an không biết phải xử lý như thế nào, đo đó, việc áp dụng hình thức này để tiến hành cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt VPHC là thiếu tính khả thi, không thể thực hiện.

Những khó khăn, vướng mắc trên đã dẫn đến tỷ lệ và hiệu quả cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt VPHC còn hạn chế, thậm chí ảnh hưởng đến tính nghiêm minh và hiệu lực của pháp luật. Vì vậy, trong thời gian tới cần phải khẩn trương sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt VPHC, góp phần nâng cao hiệu quả công tác xử phạt VPHC; đồng thời, để phù hợp với quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2020. Với quan điểm nghiên cứu trên, tác giả kiến nghị một số nội dung liên quan đến việc thi hành cưỡng chế quyết định xử phạt VPHC cần hoàn thiện như sau:

Một là, sửa đổi quy định về trình tự, thủ tục, quy trình cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt VPHC bị khiếu nại, khởi kiện trong Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) theo hai hướng:

(i) Cần quy định trong trường hợp cá nhân, tổ chức vi phạm thực hiện quyền khiếu nại, khởi kiện về quyết định xử phạt VPHC vẫn có thể bị cưỡng chế thi hành nếu hết thời hạn thi hành nhưng không thực hiện mà không nhất thiết phải có thêm điều kiện là phải có “quyết định tạm đình chỉ việc thi hành quyết định đó theo quy định của pháp luật” của người giải quyết khiếu nại, khởi kiện như quy định hiện hành.

(ii) Phải quy định rõ trong trường hợp cá nhân, tổ chức thực hiện quyền khiếu nại, khởi kiện và cơ quan, người có thẩm quyền đã thụ lý giải quyết thì phải tạm dừng ngay việc thi hành quyết định xử phạt VPHC cho đến khi quyết định giải quyết khiếu nại của cơ quan, người có thẩm quyền hoặc bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực thi hành để có cơ sở pháp lý cho người có thẩm quyền cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt VPHC thực hiện và nhất là bảo đảm tính thống nhất, tương thích với các ngành luật khác trong hệ thống pháp luật, tránh trường hợp áp dụng tùy nghi, gây nhiều tranh cãi như quy định hiện hành.

Hai là, khẩn trương sửa đổi và thay thế Nghị định số 166/2013/NĐ-CP, trong đó cần chú trọng nội dung quy định cụ thể, rõ ràng hơn về trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp cưỡng chế (quy định về đối tượng bị áp dụng trong từng biện pháp cưỡng chế, xác minh thông tin về tiền, tiền lương, thu nhập, tài khoản, tài sản; quyết định cưỡng chế, tỷ lệ khấu trừ một phần lương hoặc một phần thu nhập đối với cá nhân, trách nhiệm của cơ quan, đơn vị, tổ chức, người sử dụng lao động đang quản lý tiền lương hoặc thu nhập của cá nhân bị khấu trừ; trách nhiệm của tổ chức tín dụng nơi cá nhân, tổ chức bị cưỡng chế mở tài khoản; những tài sản không được kê biên; tài sản trong khối tài sản chung với các tổ chức, cá nhân khác; tổ chức thi hành các biện pháp cưỡng chế cụ thể; biên bản thi hành các biện pháp cưỡng chế cụ thể; giao bảo quản tài sản kê biên; định giá tài sản kê biên; chuyển giao tài sản đã kê biên để đấu giá; chuyển giao quyền sở hữu tài sản); bảo đảm thi hành quyết định cưỡng chế hành chính (quy định về các biện pháp nhằm bảo đảm thực hiện quyết định cưỡng chế hành chính; chuyển việc thi hành quyết định cưỡng chế để bảo đảm thi hành và cưỡng chế đối với cá nhân, tổ chức vừa bị áp dụng xử phạt hành chính vừa bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả); chi phí cưỡng chế hành chính (quy định về xác định chi phí cưỡng chế; tạm ứng, hoàn trả chi phí cưỡng chế; lập dự toán, chấp hành và thanh toán chi phí cưỡng chế)...

Ba là, nghiên cứu, bổ sung quy định về xử phạt VPHC đối với những trường hợp có điều kiện thi hành nhưng cố tình không tự nguyện thi hành và có hành vi cản trở, gây khó khăn cho việc thi hành các quyết định xử phạt VPHC để bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật./.

Lê Kim Chinh

Sở Tư pháp Bình Định

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.
Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là một trong những nội dung được các đại biểu quan tâm tại cuộc họp góp ý đối với Hồ sơ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 12/4/2025. Đồng chí Lê Thị Vân Anh, Phó Vụ trưởng Vụ pháp luật hình sự - hành chính, Bộ tư pháp chủ trì cuộc họp.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm