
![]() |
Toàn cảnh phiên họp. |
Tham dự phiên họp có đồng chí Bùi Thế Duy, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ; đại diện của các cơ quan: Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Bộ Công Thương, Bộ Y tế, Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội… và đại diện một số cơ quan thuộc Bộ Tư pháp.
Nhấn mạnh quan điểm xây dựng dự án Luật, đại diện Bộ Khoa học và Công nghệ cho biết, Luật Công nghệ cao (sửa đổi) đã thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo để phát triển công nghệ cao, công nghệ chiến lược, tạo đột phá quan trọng hàng đầu, động lực chính để phát triển nhanh lực lượng sản xuất hiện đại, hoàn thiện quan hệ sản xuất, đổi mới phương thức quản trị quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội trên cơ sở bám sát 03 trụ cột gồm: (i) Xu thế công nghệ của thời đại như đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh, phát triển bền vững, phát triển các mô hình kinh doanh mới, ngành công nghiệp mới, xây dựng nền sản xuất xanh - sạch; (ii) Chiến lược phát triển quốc gia, trong đó, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là động lực then chốt đối với tăng trưởng chất lượng cao và phát triển bền vững; (iii) Yêu cầu giải quyết các vướng mắc, bất cập thực tế, tạo hành lang pháp lý hiệu quả để phát triển công nghệ cao trong nước, nâng cao năng lực công nghệ nội sinh, tiến tới cạnh tranh công nghệ toàn cầu.
Theo đó, dự thảo Luật được xây dựng gồm 06 chương và 29 điều (giảm 06 điều so với Luật Công nghệ cao năm 2008, sửa đổi năm 2013 và năm 2014), tập trung hoàn thiện các khái niệm, tiêu chí về công nghệ cao bảo đảm hiệu quả, cập nhật so với xu hướng công nghệ trên thế giới, phù hợp với bối cảnh, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng của Việt Nam; sửa đổi một số quy định để phù hợp với hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành và khẳng định “phát triển công nghệ cao và công nghệ chiến lược là đột phá chiến lược để phát triển nhanh, bền vững và bảo đảm tự chủ công nghệ quốc gia”; bổ sung các quy định khung nhằm khuyến khích doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo đầu tư vào công nghệ cao; xây dựng hành lang pháp lý đối với công nghệ chiến lược; bổ sung các quy định về hình thành hệ sinh thái công nghệ cao như là một trụ cột mới nhằm tạo môi trường thuận lợi, toàn diện cho đổi mới sáng tạo để các doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học, tổ chức khởi nghiệp và quỹ đầu tư có thể tham gia, liên kết trong chuỗi giá trị công nghệ cao…
Tại phiên họp, các thành viên Hội đồng thẩm định đã trao đổi, thảo luận và cho ý kiến đối với một số nội dung của dự thảo Luật Công nghệ cao (sửa đổi), cụ thể:
Thứ nhất, cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu chỉnh lý, phân định rõ chính sách ưu đãi được quy định tại dự thảo Luật với các chính sách ưu đãi được quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật khác như: Luật Công nghiệp công nghệ số năm 2025, Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo năm 2025, đồng thời rà soát tất cả các chính sách ưu đãi của Nhà nước theo hướng chỉ áp dụng ưu đãi trực tiếp trong các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng, ươm tạo, chuyển giao, sản xuất thử nghiệm công nghệ cao nhằm bảo đảm việc áp dụng chính sách ưu đãi trong các trường hợp được cụ thể, rõ ràng, thuận lợi, không chồng chéo.
![]() |
Đại biểu trao đổi tại phiên họp. |
Thứ hai, đối với Điều 20 dự thảo Luật quy định về phát triển công nghiệp công nghệ cao và công nghiệp công nghệ chiến lược, đại biểu cho biết, điểm d khoản 1 và khoản 2 Điều này đang đề cập đến việc sản xuất sản phẩm công nghệ hỗ trợ phục vụ phát triển sản phẩm công nghệ cao, sản phẩm công nghệ chiến lược và kế hoạch phát triển một số ngành công nghiệp hỗ trợ phục vụ phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chiến lược. Tuy nhiên, vấn đề phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ công nghệ cao hiện nay vẫn còn yếu, phụ thuộc lớn vào nguồn cung linh kiện vật liệu đầu vào. Điều này đã làm giảm giá trị gia tăng của sản phẩm công nghiệp công nghệ cao sản xuất tại Việt Nam. Do vậy, đại biểu đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu, cân nhắc tách thành một điều khoản riêng về phát triển công nghiệp hỗ trợ công nghệ cao và công nghiệp công nghệ chiến lược, trong đó quy định một số nội dung như: Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ trong nước nâng cao năng lực để đạt được các tiêu chuẩn kỹ thuật, tham gia vào chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm công nghiệp công nghệ cao; ưu đãi đặc biệt cho các dự án sản xuất sản phẩm, nguyên liệu, linh kiện, thiết bị cốt lõi mà trong nước chưa sản xuất được; chính sách hỗ trợ của Nhà nước cho các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ chiến lược sản xuất tại Việt Nam…
Thứ ba, tại Điều 25 dự thảo Luật quy định về khu công nghệ cao, đại biểu đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo bổ sung các tiêu chí lượng hóa điều kiện thành lập khu công nghệ cao như: Diện tích tối thiểu, nguồn vốn, nguồn nhân lực, hạ tầng kỹ thuật với khu công nghệ cao chuyên ngành, khu công nghệ cao đa ngành… đồng thời bổ sung các quy định về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của ban quản lý khu công nghệ cao theo hướng các ban quản lý khu công nghệ cao thực hiện chức năng quản lý nhà nước như một đơn vị hành chính để tạo điều kiện thuận lợi, thông thoáng trong việc quản lý, phát triển các khu công nghệ cao.
![]() |
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tú phát biểu kết luận phiên họp. |
Phát biểu kết luận phiên họp, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tú nhấn mạnh, dự thảo Luật đủ điều kiện trình Chính phủ sau khi tiếp thu, hoàn thiện theo ý kiến thẩm định, trong đó tập trung vào 05 vấn đề trọng tâm, cụ thể: (i) Hoàn thiện phạm vi điều chỉnh bảo đảm có trọng tâm, trọng điểm; (ii) Bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống pháp luật và trong chính dự thảo Luật; (iii) Bảo đảm tính khả thi của dự án Luật; (iv) Cần khắc phục một số điểm để hạn chế việc lạm dụng hoặc hiểu sai quy định; (v) Hoàn thiện cấu trúc hồ sơ dự thảo Luật, trong đó, cần đặc biệt lưu ý Bảng so sánh, thuyết minh về đề xuất và lý do đề xuất sửa đổi, bổ sung.