
![]() |
Toàn cảnh phiên họp. |
Trao đổi tại phiên họp, đại diện Cục Chuyển đổi số quốc gia, Bộ Khoa học và Công nghệ cho biết, sau gần 20 năm thi hành, Luật Công nghệ thông tin năm 2006 đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, không còn theo kịp tốc độ phát triển của công nghệ số và yêu cầu của quá trình chuyển đổi số toàn diện, bởi, Luật được xây dựng trong bối cảnh các công nghệ đột phá như: Trí tuệ nhân tạo (AI), Dữ liệu lớn (Big Data), Internet vạn vật (IoT), Điện toán đám mây (Cloud Computing), Chuỗi khối (Blockchain)... cùng với các mô hình kinh doanh mới còn chưa xuất hiện hoặc chưa phổ biến. Mặt khác, hệ thống pháp luật còn một số khoảng trống pháp lý, nhiều nội dung chưa được điều chỉnh hoặc đã được điều chỉnh nhưng ở nhiều văn bản khác nhau như: Số hóa thế giới thực, kết nối thế giới thực và số thành một thế giới thống nhất; hạ tầng cho chuyển đổi số; Chính phủ số và chuyển đổi số trong các cơ quan thuộc hệ thống chính trị; kinh tế số nền tảng; công dân số; văn hóa số... Do đó, cần thiết phải xây dựng Luật Chuyển đổi số nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật để số hóa quốc gia, tạo nền tảng pháp lý liên ngành về chuyển đổi số.
Về phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật, đại diện Cục Chuyển đổi số quốc gia nhấn mạnh, Luật quy định về hoạt động chuyển đổi số; các biện pháp thúc đẩy, bảo đảm hoạt động chuyển đổi số; quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động chuyển đổi số tại Việt Nam và quản lý nhà nước về chuyển đổi số với 08 chương, 83 điều gồm các nội dung cơ bản như: Xác định các thành phần cấu thành hạ tầng cho chuyển đổi số; yêu cầu phát triển đối với hạ tầng bảo đảm đồng bộ, hiện đại, an toàn đáp ứng nhu cầu triển khai chuyển đổi số toàn diện tại Việt Nam; nguyên tắc sử dụng hệ thống trí tuệ nhân tạo trong hoạt động công vụ bảo đảm tuân thủ pháp luật; phạm vi kinh tế số nền tảng; chính sách quản lý, phát triển kinh tế số nền tảng; trách nhiệm của các doanh nghiệp vận hành nền tảng số trung gian; tiêu chuẩn, quy chuẩn và quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ chuyển đổi số; bảo đảm an toàn cho không gian số; phạm vi kinh tế số ngành, lĩnh vực; vị trí pháp lý dữ liệu; chính sách của Nhà nước về dữ liệu; các nguyên tắc cơ bản, quyền công dân số; đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số…
Trao đổi về hồ sơ dự thảo Luật, các đại biểu cơ bản nhất trí về sự cần thiết ban hành Luật, thống nhất với các nội dung của dự thảo Luật. Ngoài ra, các đại biểu đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu, cân nhắc một số nội dung sau:
Thứ nhất, đại biểu đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo rà soát lại các khái niệm được nêu ra tại dự thảo Luật, đặc biệt là khái niệm hạ tầng số. Theo đó, tại khoản 7 Điều 3 dự thảo Luật quy định: “Hạ tầng số là hạ tầng chiến lược quốc gia, bao gồm cơ sở hạ tầng viễn thông, trung tâm dữ liệu, điện toán đám mây, hạ tầng truyền dẫn cho kết nối máy tới máy, nền tảng quản lý và chia sẻ dữ liệu Internet vạn vật”. Tuy nhiên, theo Quyết định số 1132/QĐ-TTg ngày 09/10/2024 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược hạ tầng số đến năm 2025 và định hướng đến năm 2030, hạ tầng số lại gồm 04 thành phần chính là hạ tầng viễn thông và Internet; hạ tầng dữ liệu; hạ tầng vật lý - số; hạ tầng tiện ích số và công nghệ số như dịch vụ. Như vậy, quy định của dự thảo Luật chưa có sự đồng nhất với Quyết định số 1132/QĐ-TTg về khái niệm hạ tầng số. Ngoài ra, đại biểu cũng đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu bổ sung thêm một số khái niệm được sử dụng nhiều trong dự thảo Luật như: Hạ tầng truyền dẫn, hạ tầng công nghiệp công nghệ số, Chính phủ số… để bảo đảm thống nhất trong cách sử dụng.
Thứ hai, đại biểu đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu bổ sung nội dung về bảo vệ bí mật nhà nước vào khoản 5 Điều 5 dự thảo Luật, cụ thể là hành vi vi phạm quy định về bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng, bảo vệ bí mật nhà nước, dữ liệu cá nhân trong quá trình triển khai chuyển đổi số, đồng thời bổ sung vào khoản 1 và khoản 3 Điều 69 dự thảo Luật nhằm bảo đảm sự thống nhất với các quy định của Luật Dữ liệu năm 2024 và Luật Bảo vệ bí mật Nhà nước năm 2018.
Thứ ba, về các chủ trương, chính sách ưu đãi đầu tư, mua sắm cho chuyển đổi số được quy định tại Điều 63 dự thảo Luật, đại biểu cho rằng, quy định này chưa có nội dung chi tiết để ưu tiên cho các doanh nghiệp số nội địa nhằm thúc đẩy việc phát triển công nghệ nội địa cũng như hệ sinh thái doanh nghiệp số trong nước. Do đó, đại biểu đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu bổ sung.
Thứ tư, đối với Mục 7 Chương 6 dự thảo Luật quy định về bảo đảm chủ quyền số quốc gia, đại biểu cho rằng, cơ quan chủ trì soạn thảo mới chỉ đưa ra các khái niệm mang tính chất nguyên tắc, đều được trích dẫn từ các luật chuyên ngành, đồng thời chưa có quy định cũng như chính sách cụ thể và các biện pháp để triển khai bảo đảm chủ quyền số quốc gia. Do đó, đại biểu đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo xem xét sự cần thiết phải đưa nội dung này vào dự thảo Luật.
![]() |
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tú phát biểu kết luận phiên họp. |
Phát biểu kết luận phiên họp, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tú nhất trí về sự cần thiết phải ban hành Luật. Bên cạnh đó, Thứ trưởng đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu điều chỉnh phạm vi của dự thảo Luật bảo đảm phù hợp với nội dung. Ngoài ra, trên cơ sở ý kiến của các thành viên Hội đồng thẩm định, Dự thảo Nghị quyết đủ điều kiện trình Chính phủ sau khi tiếp thu, hoàn thiện theo ý kiến thẩm định, trong đó tập trung vào 04 vấn đề trọng tâm, cụ thể: (i) Hoàn thiện phạm vi điều chỉnh; (ii) Cần bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống pháp luật và trong chính dự thảo Luật; (iii) Cần bảo đảm tính khả thi của dự án Luật; (iv) Hoàn thiện hồ sơ dự thảo Luật gồm: Tờ trình; bảng so sánh; nghiên cứu chỉnh sửa văn phong của dự thảo Luật bảo đảm tính pháp lý hơn.