
![]() |
Toàn cảnh phiên họp. |
Tham dự phiên họp có các thành viên của Hội đồng thẩm định là đại diện của các cơ quan: Bộ Nội vụ, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam… và đại diện một số cơ quan thuộc Bộ Tư pháp như: Vụ Công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính, Vụ Pháp luật hình sự - hành chính, Vụ Pháp luật quốc tế, Vụ Pháp luật dân sự - kinh tế.
Thay mặt cơ quan chủ trì soạn thảo, đại diện Cục Công nghiệp, Bộ Công Thương trình bày những nội dung cơ bản của chính sách Luật Công nghiệp trọng điểm (chính sách Luật). Theo đó, 02 nhóm chính sách được đề xuất gồm: Chính sách khuyến khích, chế tạo trong nước các sản phẩm công nghiệp trọng điểm và chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ.
Đại diện Bộ Công Thương nêu rõ, chính sách Luật được xây dựng nhằm bảo đảm sự phát triển của các ngành công nghiệp trọng điểm phù hợp với bối cảnh khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; hướng đến xây dựng nền công nghiệp độc lập, tự chủ, tự cường, góp phần phát triển kinh tế nhanh và bền vững, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời kiến tạo được một số đột phá về chính sách, pháp luật để xử lý các điểm nghẽn cơ bản trong phát triển các ngành công nghiệp trọng điểm theo hướng: Từ theo chiều rộng sang theo chiều sâu; từ gia công, lắp ráp sang nghiên cứu, thiết kế và sản xuất tại Việt Nam, có hàm lượng tri thức và công nghệ cao, tạo đột phá về quá trình hiện đại hóa trong công nghiệp.
![]() |
Đại diện Cục Công nghiệp, Bộ Công Thương trình bày tại phiên họp. |
Chính sách Luật được xây dựng để điều chỉnh hoạt động sản xuất các sản phẩm công nghiệp nền tảng, công nghiệp mũi nhọn tại Việt Nam theo định hướng tại Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 17/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Nghị quyết số 29-NQ/TW) gồm: (i) Luyện kim: Thép hợp kim, thép đặc chủng phục vụ công nghiệp chế tạo máy thế hệ mới; các kim loại quan trọng khác; (ii) Cơ khí chế tạo: Máy nông nghiệp; ô tô; tàu biển; thiết bị công trình; thiết bị năng lượng, thiết bị điện; thiết bị y tế; sản xuất rô-bốt, thiết bị tích hợp vận hành tự động, điều khiển từ xa; công nghiệp chế tạo phục vụ nông nghiệp; (iii) Hóa chất: Hóa chất cơ bản, hóa dầu, hóa dược, phân bón; (iv) Vật liệu mới; (iv) Công nghiệp hỗ trợ.
Trao đổi về hồ sơ chính sách Luật, các đại biểu đánh giá cao sự chuẩn bị công phu, kỹ lưỡng của cơ quan chủ trì soạn thảo, đồng thời nhất trí về sự cần thiết phải xây dựng chính sách. Ngoài ra, các đại biểu đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu, cân nhắc bổ sung đầy đủ các văn bản quan trọng của Bộ Chính trị vào cơ sở chính trị, cơ sở pháp lý tại dự thảo Tờ trình như: Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24/01/2025 về hội nhập quốc tế trong tình hình mới; Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới; Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 về phát triển kinh tế tư nhân...
![]() |
Đại biểu trao đổi tại phiên họp. |
Bên cạnh đó, tại Mục 3.3.1 của dự thảo Tờ trình về hạn chế trong quá trình xây dựng, ban hành chính sách, cơ quan chủ trì soạn thảo đưa ra quan điểm: “... chính sách thuế giá trị gia tăng, cũng có nhiều loại hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế hoặc được áp dụng mức thuế suất thấp 0% và 5%” để lý giải cho hạn chế của pháp luật hiện hành về ưu đãi, hỗ trợ phát triển cho các ngành công nghiệp trọng điểm còn rời rạc, hiệu lực pháp lý thấp hoặc chưa được xây dựng. Theo một số đại biểu, nhận định này chưa đúng với bản chất của thuế giá trị gia tăng, bởi, thuế giá trị gia tăng được thu theo hàng hóa, dịch vụ và chính sách thuế giá trị gia tăng không có ưu đãi riêng, không phân biệt đối tượng cung cấp hàng hóa, dịch vụ. Cụ thể: Luật Thuế giá trị gia tăng quy định 03 mức thuế suất gồm 0%, 05% và 10%, trong đó, mức thuế suất 0% chỉ áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu theo thông lệ quốc tế; mức thuế suất 05% áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ thiết yếu đời sống, hàng hóa dịch vụ đầu tư và sử dụng sản xuất nông nghiệp; mức thuế suất 10% áp dụng cho các hàng hóa, dịch vụ không thuộc 02 đối tượng trên. Trên cơ sở đó, đại biểu đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu lược bỏ nhận định đã nêu tại Mục 3.3.1.
Để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hồ sơ chính sách Luật, một số đại biểu đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo bổ sung báo cáo rà soát văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến các luật như: Luật Ngân sách nhà nước, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật Kế toán...
![]() |
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tú kết luận phiên họp. |
Phát biểu kết luận phiên họp, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tú nhấn mạnh, nội dung chính sách Luật cơ bản phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 29-NQ/TW cũng như tinh thần của các nghị quyết mới gồm Nghị quyết số 57-NQ/TW, Nghị quyết số 59-NQ/TW, Nghị quyết số 66-NQ/TW và Nghị quyết số 68-NQ/TW. Tuy nhiên, cơ quan chủ trì soạn thảo cần rà soát lại các nội dung về quỹ phát triển công nghiệp trọng điểm để bảo đảm sự phù hợp. Bên cạnh đó, hồ sơ chính sách Luật chỉ đủ điều kiện trình Chính phủ xem xét, quyết định sau khi cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp thu đầy đủ các ý kiến của thành viên Hội đồng thẩm định, trong đó tập trung vào 05 vấn đề trọng tâm, cụ thể: (i) Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các nội dung về phạm vi điều chỉnh của Luật và cách tiếp cận; (ii) Cần bảo đảm sự rõ ràng của chính sách và lưu ý về nguồn lực tài chính; (iii) Cần bảo đảm tính thống nhất, không trùng lặp của Luật; (iv) Phối hợp với các bộ, ngành để xử lý bảo đảm thống nhất với các luật sẽ được trình trong Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV; (v) Hoàn thiện hồ sơ chính sách Luật, nhất là báo cáo đánh giá tác động./.