Ở Việt Nam, nhu cầu tiếp cận pháp luật của người dân là rất lớn. Nhu cầu này gắn liền với hoàn cảnh, điều kiện thực thi pháp luật; một bộ phận rất nhỏ người dân có nhu cầu tiếp cận pháp luật để phục vụ những mục đích khác hoặc là vì nghề nghiệp (như nghề luật sư, tư vấn pháp luật, trợ giúp viên pháp lý, người kinh doanh…). Ở cấp xã, người dân thường có nhu cầu tiếp cận pháp luật đối với các lĩnh vực do cấp xã quản lý, tập trung lớn vào các lĩnh vực có nhiều thủ tục như tư pháp; lao động, thương binh và xã hội; tài nguyên - môi trường hoặc những lĩnh vực thiết yếu cho đời sống, sản xuất kinh doanh như nông nghiệp và phát triển nông thôn, trật tự, an toàn xã hội, xây dựng… Những lĩnh vực ít liên quan trực tiếp hơn đến đời sống cộng đồng, sản xuất, kinh doanh sẽ ít được người dân tìm hiểu đầy đủ (như lĩnh vực kế hoạch và đầu tư, nội vụ…).
Mặt khác, tùy vào loại đơn vị cấp xã mà nhu cầu tiếp cận pháp luật của người dân theo các hình thức, lĩnh vực hoạt động cũng khác nhau, ví dụ như nhu cầu tiếp cận pháp luật thông qua việc thực hiện các thủ tục hành chính; tủ sách pháp luật; hoạt động hoà giải; phổ biến, giáo dục pháp luật; bảng tin, hướng dẫn thủ tục hành chính tại trụ sở cơ quan; thông tin trên mạng internet; chủ động hoặc bị động khi tiếp cận pháp luật… Có thể nêu ra những hình thức tiếp cận thông tin pháp luật của người dân ở cấp xã, phường, thị trấn như:
- Các bảng niêm yết tại trụ sở cơ quan nhà nước;
- Các phương tiện thông tin đại chúng (báo, đài, ti vi...);
- Các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật;
- Sách, tạp chí chuyên ngành của cơ quan nhà nước;
- Trang thông tin điện tử của cơ quan nhà nước từ trung ương đến cấp xã liên quan (thông qua mạng internet);
- Công báo theo quy định của phát luật;
- Bộ phận chuyên cung cấp thông tin của cơ quan nắm giữ thông tin;
- Hình thức khác như qua thi hành pháp luật của cán bộ, công chức, thực hiện pháp luật của người dân…
Qua khảo sát tình hình tiếp cận thông tin pháp luật của người dân ở xã, phường, thị trấn một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, trong bài viết này, tác giả nêu ra một số vấn đề thực trạng và đề xuất giải pháp cung cấp thông tin để nâng cao khả năng tiếp cận pháp luật của người dân ở xã, phường, thị trấn.
1. Thực trạng tiếp cận pháp luật của người dân ở xã, phường, thị trấn
Trong thời gian qua, việc đáp ứng nhu cầu tiếp cận pháp luật của người dân đã được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm, các hoạt động thi hành pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật cũng đã góp phần quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu pháp luật của người dân.
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đã được triển khai khá đồng bộ với nhiều hình thức phong phú, dần tiếp cận đến nhu cầu tìm hiểu pháp luật của các tầng lớp dân cư trong xã hội. Hoạt động tư vấn pháp luật, cung cấp dịch vụ pháp luật được xã hội hóa, mang lại sự thuận tiện, kịp thời và hiệu quả rõ rệt, đáp ứng tốt nhu cầu tiếp cận pháp luật cho người dân. Công tác hòa giải cũng được các địa phương thực hiện với kết quả cao, góp phần duy trì khối đoàn kết làng, xã, qua hòa giải cũng đã đáp ứng tốt nhu cầu tiếp cận pháp luật của người tham gia hòa giải.
Hoạt động trợ giúp pháp lý luôn phát triển mạnh về tổ chức bộ máy, số lượng cán bộ trợ giúp viên pháp lý, từng bước nâng cao chất lượng trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng, tạo điều kiện mạnh mẽ cho việc nâng cao đồng đều chất lượng trợ giúp pháp lý trong toàn quốc, giúp các đối tượng được trợ giúp pháp lý nâng cao ý thức pháp luật, giải tỏa vướng mắc pháp luật, đồng thời, giúp các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan nhà nước khác giải quyết vụ việc một cách chính xác, khách quan, công bằng và đúng pháp luật; tạo niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, góp phần ổn định chính trị, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.
Thủ tục hành chính liên tục được cải cách theo hướng đơn giản hóa và công khai, minh bạch, được niêm yết công khai tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn, là kênh đưa pháp luật đến người dân trực tiếp, hữu hiệu, đáp ứng được yêu cầu tiếp cận pháp luật của người dân.
Việc áp dụng pháp luật, thực hiện pháp luật của các cơ quan nhà nước và người dân cũng là một trong những điều kiện để người dân có cơ hội tiếp cận và nâng cao nhận thức pháp luật, điển hình là các hoạt động xét xử, xử lý vi phạm hành chính…
Nhìn chung, hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật và thông tin pháp luật đã có những bước phát triển vượt bậc, bảo đảm tốt nhu cầu tiếp cận pháp luật của người dân. Bên cạnh đó, vẫn còn những hạn chế, bất cập cần được tiếp tục khắc phục trong thời gian tới như:
Một là, hoạt động đưa thông tin pháp luật đến với người dân vẫn mang tính một chiều; đó là sự “vênh” nhau giữa một bên cung cấp thông tin pháp luật với một bên là người dân - đối tượng tìm hiểu pháp luật. Tính một chiều thể hiện ở chỗ:
- Nhà nước xây dựng chương trình, xác định quy mô cung cấp thông tin pháp luật đến với người dân mà không xuất phát từ nhu cầu pháp luật của người dân. Đây là một trong những nhược điểm lớn trong “sự bao cấp” thông tin pháp luật từ phía Nhà nước; dẫn đến thông tin pháp luật cung cấp vừa thừa, vừa thiếu, do đó chưa đáp ứng đúng và trúng nhu cầu của người dân.
- Nhà nước giải thích pháp luật trên cơ sở cách hiểu của một chuyên gia pháp luật mà không xuất phát từ người dân, dẫn tới tình trạng thông tin pháp luật đến với người dân chưa hợp lý.
- Khả năng tiếp cận pháp luật của người dân là rất đa dạng, nhanh chóng, đặc biệt là ở các thành phố, khả năng tiếp cận pháp luật của người dân là rất lớn, tập trung vào các dịch vụ pháp lý, qua các trang thông tin điện tử, báo điện tử, mạng xã hội… song sự thay đổi từ phía các cơ quan nhà nước mới là bước đầu, chưa nhanh nhạy với khả năng đó.
- Các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật đa dạng nhưng hiệu quả của nó (ý thức pháp luật của người dân) chưa cao.
Hai là, mặc dù hiện nay hệ thống văn bản pháp luật hiện hành có nhiều quy định về việc cung cấp thông tin, nhưng các quy định này nằm rải rác trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, mỗi văn bản lại điều chỉnh việc tiếp cận thông tin ở một lĩnh vực nhất định, có những trường hợp quy định còn thiếu rõ ràng. Hiện nay, còn tình trạng nhiều văn bản chưa quy định rõ phạm vi thông tin được tiếp cận, thiếu các quy định về quy trình, thủ tục cung cấp thông tin; trách nhiệm cung cấp thông tin của cơ quan nhà nước, đặc biệt là trong trường hợp thông tin liên quan đến nhiều cơ quan khác nhau; quy định thiếu rõ ràng về điều kiện, lý do từ chối cung cấp thông tin… Chính vì thế, có thể dẫn tới tình trạng người dân bị từ chối cung cấp thông tin mặc dù nhu cầu của họ là thiết thực và chính đáng, vì vậy, chưa bảo đảm được sự bình đẳng trong việc đáp ứng yêu cầu cung cấp thông tin của công dân, doanh nghiệp với các cơ quan nhà nước; cán bộ, công chức lúng túng trong việc xử lý các yêu cầu cung cấp thông tin.
Ba là, một số cán bộ cung cấp thông tin pháp luật chưa thực sự chuyên nghiệp, kiến thức chuyên môn còn hạn chế; nhiều trường hợp kiêm nhiệm, do đó, việc cung cấp thông tin pháp luật không thường xuyên, đầy đủ, nên nhiều trường hợp các tổ chức, cá nhân không nắm được thông tin; trách nhiệm giải đáp, cung cấp thông tin pháp luật còn nhiều hạn chế. Hiện nay, phần lớn các cơ quan chưa có đơn vị và cán bộ chuyên trách, theo dõi, giải quyết và tổng hợp chung tình hình tiếp cận thông tin, mà cán bộ thuộc mỗi bộ phận trực thuộc tự quản lý thông tin và cung cấp thông tin mà mình đang quản lý. Phương pháp, cách thức cũng cấp thông tin chưa thực sự khoa học mà còn mang tính hình thức.
Ngoài ra, ý thức về trách nhiệm phổ biến, hướng dẫn thực hiện pháp luật của một bộ phận cán bộ, công chức nhà nước chưa cao, chưa thực sự nhiệt tình, hết trách nhiệm nên thường gây ra tâm lý e ngại đối với nhân dân khi có nhu cầu tìm hiểu pháp luật.
Bốn là, sự thiếu thống nhất trong thi hành pháp luật giữa các địa phương, cơ quan nhà nước cũng là một trong những yếu tố làm hạn chế khả năng tiếp cận pháp luật chính xác của người dân. Việc các cơ quan hành chính nhà nước đặt ra các thủ tục đặc thù tại địa phương, cơ quan làm cho hệ thống pháp luật không thống nhất cả chiều dọc và chiều ngang, ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận một hệ thống pháp luật thống nhất của người dân.
Năm là, ý thức pháp luật nói chung và nhu cầu tự tìm hiểu pháp luật của người dân còn chưa cao. Thông thường người dân chỉ có nhu cầu tìm hiểu pháp luật ngay trước hoặc trong khi tham gia vào một quan hệ pháp luật nhất định, có khả năng ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của họ.
2. Giải pháp tăng cường thông tin, nâng cao khả năng tiếp cận pháp luật cho người dân tại xã, phường, thị trấn
Trong một xã hội dân chủ, quyền được tiếp cận thông tin nói chung, đặc biệt là thông tin pháp luật là một trong những quyền thiết yếu của công dân, là một trong những hình thức, phương thức, phương tiện để nhân dân tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, công chức và bảo vệ quyền công dân. Tiếp cận pháp luật hiện đã trở thành một nhu cầu và là một trong những nội dung của quyền công dân (quyền được thông tin).
Mặt khác, để pháp luật phát huy hiệu lực cũng như nâng cao nhận thức và kỹ năng thực hiện quyền làm chủ cũng như ý thức chấp hành pháp luật của mọi công dân, Nhà nước ngoài việc cải cách, đổi mới tổ chức và hoạt động cũng cần tạo điều kiện hỗ trợ người dân tiếp cận pháp luật và công lý một cách thuận lợi để thực thi quyền lực của mình. Qua đó, giúp họ biết sử dụng công cụ pháp luật để tổ chức cuộc sống một cách an toàn, hiệu quả, để phòng tránh, xử lý rủi ro, tranh chấp trong kinh doanh, lập nghiệp cũng như đời sống, xã hội.
Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật quy định “Ngày Pháp luật” là ngày 09/11 hằng năm, nhằm tôn vinh Hiến pháp, pháp luật, giáo dục ý thức thượng tôn pháp luật cho mọi người trong xã hội. Luật cũng quy định 08 hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật chính thức là cơ sở để đưa hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật đi vào nền nếp, nâng cao chất lượng, như: Họp báo, thông cáo báo chí; phổ biến pháp luật trực tiếp; tư vấn, hướng dẫn tìm hiểu pháp luật; cung cấp thông tin, tài liệu pháp luật; thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, loa truyền thanh; đăng tải trên Công báo; đăng tải thông tin pháp luật trên trang thông tin điện tử; niêm yết tại trụ sở, bảng tin của cơ quan, tổ chức, khu dân cư; tổ chức thi tìm hiểu pháp luật.... Việc triển khai Luật sẽ có những giải pháp mới về tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật theo hướng thống nhất đầu mối quản lý, thông cáo báo chí về văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành… đã và đang góp phần nâng cao khả năng tiếp cận pháp luật của người dân. Ngoài ra, tác giả cũng đề xuất một số giải pháp tăng cường khả năng tiếp cận pháp luật của người dân như sau:
Thứ nhất, phát triển mạng lưới phổ biến, tuyên truyền pháp luật qua mạng truyền thông, truyền hình, internet. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu pháp luật thống nhất và giải đáp pháp luật trực tuyến thống nhất ở trung ương và cấp tỉnh như một dịch vụ công, để bảo đảm thống nhất áp dụng ở xã, phường, thị trấn.
Nâng cao ý thức, trách nhiệm của cán bộ, công chức trong tiếp công dân và cung cấp thông tin pháp luật, để người dân dễ dàng tiếp cận pháp luật và qua đó kiểm soát hoạt động của Nhà nước và thực hiện quyền của mình. Cần quy định trách nhiệm của cơ quan công quyền trong việc công khai đầy đủ quy định pháp luật.
Thứ hai, minh bạch, đổi mới phương thức công khai thủ tục hành chính, tạo thuận lợi hơn nữa, bảo đảm cho người dân hiểu, thực hiện được, đưa hình thức này thành công cụ hữu hiệu để đưa pháp luật về các thủ tục hành chính đến người dân. Tập trung phổ biến, giáo dục pháp luật, nhất là các thủ tục hành chính tại trụ sở cơ quan tiếp dân.
Nâng cao trình độ pháp luật cho các cá nhân điển hình, làm cầu nối đưa thông tin pháp luật đến với người dân. Tăng cường phổ biến, tuyên truyền pháp luật thông qua các hình thức vui chơi, tìm hiểu pháp luật trên đài truyền hình, các trò chơi cộng đồng. Cần quy định trách nhiệm và cơ chế theo dõi, đánh giá và giám sát việc thực hiện quyền được cung cấp thông tin pháp luật từ phía nhân dân đối với cán bộ, công chức nhà nước.
Thứ ba, thiết lập trang thông tin điện tử công khai các quy định pháp luật, đây là phương thức hữu hiệu để người dân được chủ động và dễ dàng hơn trong việc tiếp cận pháp luật mà không phải yêu cầu cơ quan, tổ chức cung cấp. Các cơ quan nhà nước cần xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin, tổ chức quản lý và cập nhật thông tin do mình đang quản lý, lưu giữ thông tin sao cho việc tìm kiếm và cung cấp thông tin dễ dàng./.
Khoa Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị khu vực I