Thuế tiêu thụ đặc biệt có vai trò quan trọng trong nền kinh tế mỗi quốc gia. Nó không chỉ là một công cụ để định hướng tiêu dùng trong đời sống mà còn là một nguồn thu thiết yếu cho ngân sách Nhà nước. Việc có những chính sách hiệu quả, hành lang pháp lý toàn diện, chặt chẽ trong việc quản lý, thu thuế tiêu thụ đặc biệt là điều hết sức cần thiết. Nhưng sau một thời gian dài thi hành pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt từ Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt 1990 đến Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) đã cho thấy còn nhiều bất cập gây nên tình trạng thất thu ngân sách Nhà nước. Hơn nữa, hiện nay, trong xu thế hội nhập, chúng ta đã tham gia ký kết nhiều các hiệp định thương mại tự do với những cam kết về miễn, giảm thuế xuất, nhập khẩu. Những vấn đề này đã đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc sửa đổi, bổ sung những hạn chế của các quy định pháp luật về thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành.
1. Thực trạng pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
1.1. Hệ thống văn bản pháp luật về thuế tiêu thụ đặc biệt
Thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam được điều chỉnh bởi một khung pháp lý khá toàn diện. Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt đầu tiên được Quốc hội khoá IX ban hành và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/10/1990 và đã qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong từng thời kỳ. Trong đó những lần sửa đổi quan trọng vào các năm 1998, 2003 và 2006. Thực hiện chương trình xây dựng Luật của Quốc hội năm 2008, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt số 27/2008/QH12 đã được Quốc hội thông qua vào ngày 14/11/2008, có hiệu lực thi hành kể từ 01/01/2009. Sau khi Chính phủ ban hành Nghị định số 26/2009/NĐ-CP ngày 16/3/2009 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt, Bộ Tài chính ban hành Thông tư hướng dẫn số 64/2009/TT-BTC ngày 27/3/2009. Tháng 12/2011, Chính phủ cho sửa đổi một số quy định trong Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật (Nghị định số 113/2011/NĐ-CP ngày 08/12/2011 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 26/2009/NĐ-CP ngày 16/3/2009).
Hiện nay, xu thế hội nhập thế giới thông qua những cam kết quốc tế, và tình hình đất nước với những chính sách kinh tế, xã hội đổi mới, đã đặt ra yêu cầu phải hoàn thiện, sửa đổi chính sách pháp luật về thuế tiêu thụ đặc biệt, để vừa đảm bảo việc thực thi các cam kết quốc tế cũng như thực hiện tốt các chính sách về kinh tế, xã hội của đất nước.
Hiện thực hóa nhiệm vụ này, một số văn bản pháp luật về thuế tiêu thụ đặc biệt được ban hành như: Luật số 70/2014/QH13 sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt 2008; Luật số 106/2016/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật Quản lý thuế; Nghị định số 108/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 28/10/2015; Thông tư số 195/2015/TT-BTC ngày 24/11/2015 của Bộ Tài chính. Đến ngày 26/11/2014, Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt.
Nhìn chung, các nội dung sửa đổi theo hướng quy định rõ ràng, minh bạch về đối tượng không chịu thuế, trị giá tính thuế, khấu trừ thuế nhằm tạo thuận lợi hơn cho người nộp thuế, đồng thời ngăn ngừa các trường hợp lợi dụng, trục lợi để trốn thuế, góp phần tạo môi trường bình đẳng, lành mạnh.
1.2. Những thay đổi tích cực của các quy định pháp luật về thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành
Những sửa đổi, bổ sung của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt được đánh giá là đảm bảo số thu cho ngân sách nhà nước một cách hợp lý trên cơ sở hài hòa lợi ích giữa Nhà nước với người sản xuất, kinh doanh và với người tiêu dùng. Cụ thể:
Thứ nhất, khoản 1 Điều 1 Luật số 70/2014 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt 2008 đã loại bỏ khỏi đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt đối với nap-ta (naphtha), chế phẩm tái hợp (reformade component) và các chế phẩm khác để pha chế xăng. Sự sửa đổi này sẽ giải quyết được vấn đề gây bất lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của một số lĩnh vực. Ví dụ: Nap-ta và chế phẩm tái hợp không chỉ sử dụng để sản xuất xăng mà còn được sử dụng làm dung môi để sản xuất các sản phẩm khác không thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt như sơn, sợi tổng hợp, chất tẩy rửa…
Thứ hai, khoản 1 Điều 2 Luật số 70/2014 đã bổ sung một số đối tượng không thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt là tàu bay, du thuyền sử dụng cho mục đích an ninh, quốc phòng. Việc bổ sung tàu bay, du thuyền sử dụng cho mục đích an ninh, quốc phòng vào diện không chịu thuế tiêu thụ đặc biệt là nhằm đảm bảo đúng mục tiêu điều tiết của thuế tiêu thụ đặc biệt. Hơn nữa, an ninh, quốc phòng là lĩnh vực Nhà nước đảm bảo 100% ngân sách nên về kỹ thuật, việc đưa vào diện không chịu thuế tiêu thụ đặc biệt đối với tàu bay, du thuyền sử dụng cho mục đích an ninh, quốc phòng giúp giảm bớt các thủ tục thu, chi ngân sách.
Thứ ba, khoản 4 Điều 1 Luật số 70/2014 đã Luật hóa quy định về giá tính thuế thuế tiêu thụ đặc biệt trong trường hợp hàng hóa vừa chịu thuế tiêu thụ đặc biệt vừa chịu thuế bảo vệ môi trường là giá bán chưa có thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế bảo vệ môi trường.
Thứ tư, khoản 2 Điều 2 Luật số 106/2016/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật Quản lý thuế đã có sự điều chỉnh thuế suất của một số hàng hóa, dịch vụ. Theo đó, tăng thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt của thuốc lá, rượu, bia, kinh doanh casino, trò chơi điện tử có thưởng, các loại xe ô tô vừa chở người vừa chở hàng, xe mô tô, đặc biệt là nâng mức thuế suất rất cao với các loại ô tô chở người từ 9 chỗ trở xuống có dung tích xi - lanh trên 3.000 cm3. Ngoài ra, đối với mặt hàng xăng thì bổ sung thêm 2 mức thuế suất thấp dành cho xăng sinh học, giảm mức thuế suất với loại xe ô tô chạy bằng điện.
Thứ năm, quy định trong khoản 1 Điều 2 Luật số 106/2016/QH13 được ban hành để hạn chế tình trạng chuyển giá trong việc tính thuế tiêu thụ đặc biệt của các doanh nghiệp.
Việc ký kết rất nhiều hiệp định tự do thương mại như: ASEAN - Trung Quốc, ASEAN - Hàn Quốc,... và các cam kết trong khuôn khổ WTO đã dẫn đến sự thay đổi lớn về chính sách thuế của đất nước, đặc biệt là thuế tiêu thụ đặc biệt. Biểu hiện cụ thể rõ nhất là sự thay đổi về thuế suất đối các một số loại hàng hóa. Nhìn chung việc thay đổi mức thuế suất bên cạnh việc đảm bảo thực thi cam kết quốc tế cũng đã có những định hướng tích cực cho chính sách xã hội như: hạn chế sử dụng rượu, bia, thuốc lá, các phương tiện giao thông cá nhân,...
1.3. Những hạn chế trong các quy định pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành
Bên cạnh những thay đổi mang tính tích cực, thực tiễn hoạt động quản lý thuế tiêu thụ đặc biệt đã cho thấy pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt hiện nay còn tồn tại nhiều bất cập cần khắc phục như:
Thứ nhất, về đối tượng chịu thuế và đối tượng không chịu thuế: Theo quy định của pháp luật hiện hành về thuế tiêu thụ đặc biệt thì có một số đối tượng cần áp thuế tiêu thụ đặc biệt thì chưa bị đánh thuế còn một số đối tượng không nên tiếp tục bị áp thuế thì vẫn bị đánh thuế.
Ví dụ: Nước ngọt có ga là loại hàng hóa hiện nay được sử dụng rất nhiều và không có lợi cho sức khỏe. Xem xét một cách toàn diện loại hàng hóa này có nhiều điểm tương đồng với bia, rượu, mà trong khi bia, rượu đã bị áp thuế tiêu thụ đặc biệt từ rất lâu với mức thuế suất cao. Bên cạnh đó, việc loại hàng hóa là điều hòa có công suất dưới 90.000 BTU bị đánh thuế cũng là không còn phù hợp với hoàn cảnh hiện tại. Mặt hàng này không chỉ dùng vào mục đích sinh hoạt mà còn được sử dụng rất nhiều cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh nên việc đánh thuế tiêu thụ đặc biệt để định hướng tiêu dùng đối với mặt hàng này hiện nay là không hợp lý.
Thứ hai, về mức thuế suất: Mức thuế suất của thuế tiêu thụ đặc biệt hiện tại chỉ điều chỉnh cho đối tượng là hàng hóa mà chưa chú trọng tới đối tượng là dịch vụ
Trong những lần sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt thì mức thuế suất chỉ thay đổi với các loại hàng hóa chịu thuế tiêu thụ đặc biệt (chủ yếu là: Ô tô, môtô, rượu, bia) trong khi thuế suất tiêu thụ đặc biệt áp dụng cho các loại dịch vụ như: Karaoke, vũ trường, ca-si-nô, gôn,... thì không bị thay đổi trong khi đây là những dịch vụ rất cần thiết phải có sự định hướng tiêu dùng từ chính sách thuế.
Thứ ba, về giá tính thuế: Theo quy định của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt thì giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt là giá do cơ sở sản xuất bán ra tại nơi sản xuất chưa có thuế tiêu thụ đặc biệt, tức là giá bán có tính cả chi phí bao bì, vỏ hộp trong đó, thế nhưng trong thực tế thì lại áp dụng không thống nhất, có loại hàng hóa áp dụng trên cơ sở giá bán có bao bì, có trường hợp áp dụng giá bán không có bao bì nên không đảm bảo công bằng giữa các doanh nghiệp cũng như giữa các hàng hóa cùng loại với nhau. Điều này có thể thấy rất rõ đối với mặt hàng là bia lon và bia
Thứ tư, chế tài xử phạt hành vi vi phạm pháp luật thuế vẫn chưa đủ sức răn đe. Minh chứng cho vấn đề này là tình trạng: Chậm nộp thuế, chốn thuế vẫn còn xảy ra nhiều gây thất thu lớn cho ngân sách nhà nước. Các quy định mức xử phạt trong Nghị định số129/2013/ NĐ-CP vẫn còn chưa thực sự mang tính răn đe với các hành vi vi phạm.
2. Thực trạng thực thi pháp luật về thuế tiêu thụ đặc biệt ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Có thể nói, trong thời gian vừa qua, Nhà nước có những thay đổi phù hợp với các yếu tố khách quan, cân bằng lợi ích giữa lợi ích của Nhà nước và cá nhân. Tạo khung pháp lý cơ bản để việc thi hành thuế tiêu thụ đặc biệt được diễn ra thuận lợi, không gây bất lợi hoặc gây những cách hiểu khác nhau dẫn tới cách áp dụng khác nhau. Các doanh nghiệp chấp hành khá nghiêm chỉnh việc thực thi pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt theo các quy định về trình tự kê khai, nộp thuế, tính thuế của pháp luật và việc lưu, giữ các hóa đơn, chứng từ cũng được các doanh nghiệp quan tâm một cách thích đáng để làm căn cứ nộp thuế thuế tiêu thụ đặc biệt, khấu trừ thuế thuế tiêu thụ đặc biệt …
Thuế tiêu thụ đặc biệt mặc dù có diện đối tượng chịu thuế thu hẹp nhưng lại có thuế suất cao hơn các loại thuế gián thu khác, vì vậy, thuế tiêu thụ đặc biệt đem lại được cho Ngân sách nhà nước nguồn thu không nhỏ. Theo thống kê tỷ trọng số thu từ thuế thuế tiêu thụ đặc biệt lớn thứ tư trong tỷ trọng các số thu từ sắc thuế hiện hành.
Bên cạnh những mặt tích cực trong việc thực thi pháp luật thì hiện nay, việc thực thi pháp luật về thuế tiêu thụ đặc biệt còn những tồn tại như sau:
Thứ nhất, tồn tại lớn nhất của việc thực thi thuế tiêu thụ đặc biệt đó là hành vi trốn thuế của các đơn vị sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ là đối tượng bị áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt. Việc ấn định thuế được quy định tại điều 25 Nghị định số 85/2007/NĐ-CP có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị thuế tiêu thụ đặc biệt mà doanh nghiệp, cá nhân phải thực hiện đã dẫn tới hậu quả là, nếu tồn tại sự “hợp tác ngầm” giữa cán bộ thu thuế và người nộp thuế sẽ làm thất thoát số thuế thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp mà không bị xử lý. Việc trốn thuế có thể thực hiện thông qua hành vi chuyển giá, tức là hành vi do các cơ sở kinh doanh thực hiện nhằm thay đổi giá hàng hóa, dịch vụ trong các giao dịch mua, bán giữa các cơ sở kinh doanh có mối quan hệ đặc biệt, với mục đích giảm thiểu tới mức có thể nghĩa vụ thuế của các bên trong giao dịch đối với nhà nước.
Thứ hai, cơ chế kiểm tra, giám sát thuế tiêu thụ đặc biệt còn lỏng lẻo dẫn tới hiện tượng gian lận, trốn thuế tiêu thụ đặc biệt; cơ chế quản lý, tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ thuế, cơ sở vật chất và trang thiết bị, môi trường quản lý thuế và công nghệ quản lý thuế tiêu thụ đặc biệt còn chưa hiệu quả dẫn tới hiện tượng gian lận, trốn thuế tiêu thụ đặc biệt.
Thứ ba, mặc dù chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong cơ quan thuế đã được kiện toàn một bước theo Quyết định số 504/QĐ-TCT ngày 29/3/2010 của Tổng cục Thuế quy định chức năng, nhiệm vụ của các đội thuộc Chi cục Thuế nhưng thực trạng vẫn còn chồng chéo, chưa chuyên sâu, chuyên nghiệp. Chức năng cưỡng chế thu nợ thuế của cơ quan thuế chưa được quy định rõ nên việc xác định và xử lý chưa kịp thời các gian lận lớn về thuế và xử lý nợ đọng gặp nhiều khó khăn.
Thứ tư, một bộ phận cán bộ thuế hiện nay chưa có kỹ năng chuyên sâu, khả năng ứng dụng các tiến bộ công nghệ tin học vào quản lý thuế hiện nay chưa phù hợp với yêu cầu quản lý hiện đại và yêu cầu cải cách hành chính thuế, thậm chí một bộ phận cán bộ quản lý thuế chưa nắm vững và thực hiện tốt các chính sách thuế và quy trình biện pháp nghiệp vụ quản lý thuế hiện hành. Thái độ và phong cách ứng xử của một bộ phận cán bộ thuế chưa thật tận tụy, công tâm, khách quan, văn minh, lịch sự, chưa coi đối tượng nộp thuế là khách hàng quan trọng để nâng cao chất lượng phục vụ, chưa trở thành người bạn đồng hành của đối tượng nộp thuế trong việc thực hiện các luật thuế, thậm chí có nhiều biểu hiện thiếu tinh thần trách nhiệm.
Thứ năm, công tác thanh tra, kiểm tra xử lý các hành vi vi phạm về thuế của cơ quan thuế chưa được đặt đúng tầm và chưa phù hợp. Bởi lẽ, thực trạng của Việt Nam hiện nay trình độ dân trí vẫn còn thấp, nhận thức trách nhiệm pháp luật chưa cao; tình trạng gian lận về thuế còn khá phổ biến nhưng chưa được phát hiện, truy thu kịp thời cho ngân sách Nhà nước. Do đó, vừa thất thu cho ngân sách Nhà nước vừa chưa thực sự đảm bảo công bằng xã hội và tính nghiêm minh về pháp luật thuế.
3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi các quy định pháp luật về thuế tiêu thụ đặc biệt
Thứ nhất, với diện đánh thuế hẹp,thuế tiêu thụ đặc biệt chỉ tập trung điều tiết một số hàng hóa và dịch vụ nhất định.Tùy theo quan điểm và chính sách của nhà nước trong từng thời kì mà pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt cũng cần điều chỉnh và hoàn thiện danh sách hàng hóa, dịch vụ chịu thuế cho phù hợp và kịp thời với mục tiêu phát triển của thực tiễn và chính sách của Nhà nước. Có như vậy, việc ban hành và áp dụng luật thuế tiêu thụ đặc biệt mới đảm bảo việc động viên một bộ phận thu nhập cao cho ngân sách nhà nước; đảm bảo được mục tiêu hướng dẫn, điều tiết sản xuất và tiêu dùng một số loại hàng hóa, dịch vụ đặc biệt theo của Nhà nước, hạn chế những xu hướng sản xuất hoặc tiêu dùng không có lợi cho nền kinh tế.
Do đó, pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt phải tiếp tục là công cụ điều tiết thu nhập trong xã hội, góp phần bớt phân hóa giàu nghèo, thực hiện công bằng xã hội. Ví dụ nên mở rộng đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt đối với các loại hàng hóa, dịch vụ sau: Các thiết bị điện, điện tử gia dụng cao cấp; điện thoại di động và dịch vụ kinh doanh nó; vật dụng cao cấp làm bằng pha lê, thảm len; mỹ phẩm cao cấp,… không phân biệt đó là hàng hóa sản xuất trong nước hay hàng hóa nhập khẩu. Bởi đây là những loại hàng hóa, dịch vụ cao cấp mà thành phần sử dụng đa số là tầng lớp giàu có. Việc mở rộng diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt với những loại hàng hóa dịch vụ này sẽ góp phần điều tiết thu nhập, định hướng tiêu dùng, mở rộng thêm được nguồn thu. Qua việc mở rộng đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt trên đây, sẽ cho phép tăng thu từ loại thuế này góp phần bù đắp cho việc giảm thu từ các loại thuế khác (thuế nhập khẩu , thuế sử dụng đất nông nghiệp…).
Ngoài ra, không nên áp dụng chế độ miễn giảm thuế tiêu thụ đặc biệt cho các cơ sở sản xuất hàng hóa thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt bởi đây là loại thuế gián thu do người tiêu dùng chịu thuế, các cơ sở sản xuất chỉ là người nộp hộ nên việc quy định miễn giảm thuế đối với loại thuế này là không hợp lý. Đây cũng là những loại hàng hóa dịch vụ mà Nhà nước cần điêu tiết, định hướng cho việc sản xuất, tiêu dùng để đảm bảo lợi ích cộng đồng, hầu hết những loại hàng hóa dịch vụ này không phải là những mặt hàng thiết yếu cho đời sống nhân dân, không thuộc diện khuyến khích tiêu dùng (ngoại trừ những mặt hàng cá biệt như xăng), nên việc quy định miễn giảm thuế đối với các mặt hàng này là không cần thiết.
Thứ hai, các nhà làm luật cần xây dựng cơ cấu thuế suất và đối tượng chịu thuế phù hợp với diễn biến mới của điều kiện kinh tế xã hội hội nhập ở Việt Nam, đặc biệt là những yêu cầu song hành của tiến trình hội nhập và nguồn thu ngân sách. Phù hợp với tiến trình hội nhập, thuế tiêu thụ đặc biệt đã có nhiều thay đổi đáng kể để đạt được mục tiêu kể trên, cụ thể là đối với mặt hàng ô tô. Với mục tiêu định hướng khuyến khích sử dụng năng lượng sinh học nhằm bảo đảm thân thiện với môi trường, giảm thiểu ô nhiễm, Luật số 70/2014/QH13 có quy định áp mức thuế suất đặc biệt thấp đối với loại xe sử dụng năng lượng sinh học (chỉ bằng ½ mức thuế suất cơ bản đối với xe chạy bằng xăng có cùng mức dung tích xi lanh). Cùng với quy định bổ sung cụ thể các mức thuế suất chi tiết, ứng với lộ trình hội nhập trong Biểu thuế, Luật số 70/2014/QH13 có bổ sung thêm vào diện áp thuế đối với các mặt hàng mới là: Ô tô chạy hoàn toàn bằng năng lượng sinh học được quy định tại các dòng thuế 4(e): Dòng thuế 4(g) quy định mức thuế ô tô chạy bằng điện; và dòng thuế 4(h) áp thuế đối với xe mô-tô-hôm… Những điều chỉnh này là rất phù hợp nhưng mới chỉ dừng lại ở phạm vi hẹp là mặt hàng ô tô. Xét về tổng thể, luật thuế tiêu thụ đặc biệt cần được bổ sung những đối tượng chịu thuế mới trên cơ sở đánh giá khả năng quản lý và thu thuế trên thực tế. Nhà sản xuất, cung ứng mặt hàng như nước giải khát có ga, dịch vụ spa, resort, thẩm mỹ nên được cân nhắc để thu thuế trong giai đoạn tới. Việc phân loại thành các tiểu nhóm áp dụng mức thuế suất khác nhau như được áp dụng với mặt hàng ô tô là giải pháp phù hợp với những mặt hàng còn nhiều tranh cãi.
Thứ ba, thuế tiêu thụ đặc biệt là loại thuế dễ bị thất thu, vì những tồn tại vốn có của nó khi chỉ có chủ thể sản xuất, nhập khẩu hàng hoá, cung ứng dịch vụ mới là đối tượng nộp thuế. Vì thế, hiện tượng móc ngoặc, chuyển giá dễ dàng được thực hiện làm cho các giao dịch không phản ánh đúng giá trị thực được che dấu. Do đó, cần phải quản lý chặt chẽ đối với loại thuế này. Siết chặt khâu quản lý tại cơ sở sản xuất từ khâu nhập, xuất nguyên liệu hàng hoá đối chiếu với công thức sản xuất để phát hiện trốn, lậu thuế, đặc biệt với các doanh nghiệp phải nộp thuế với mức lớn, thuế suất cao.
Ngoài ra, phương thức thoả thuận trước về phương pháp xác định giá tính thuế (APA) trong quản lý thuế cần được tăng cường áp dụng trên thực tế kết hợp với các chế tài mạnh, thậm chí là thu giấy phép để đảm bảo tính răn đe, đảm bảo nguồn thu ngân sách từ thuế tiêu thụ đặc biệt.
Thứ tư, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt; nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ thuế; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra tình hình thực hiện pháp luật thuế nói chung và thuế tiêu thụ đặc biệt nói riêng; tăng cường hợp tác quốc tế trong quản lý thuế.
Thuế là một trong những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Chính sách thuế phải phù hợp với đặc điểm tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của Việt Nam trong từng thời kỳ, phản ánh được đầy đủ nguyện vọng, đòi hỏi chính đáng của mọi công dân, mọi tổ chức. Do đó, để phù hợp với bối cảnh hội nhập, chính sách thuế tất yếu phải thay đổi, tuy nhiên phải đảm bảo kết quả tăng nguồn thu ngân sách Nhà nước, đảm bảo đầy đủ nghĩa vụ và quyền cho mọi tầng lớp nhân dân dù ở bất kỳ giai đoạn, thời kỳ này, dù thực hiện mục tiêu gì đi nữa. Xu thế hội nhập, liên kết kinh tế trong khu vực và tiến tới toàn cầu hóa kinh tế ngày càng ở mức độ cao là tất yếu khách quan, tạo cơ hội cho nước ta có thể tranh thủ tập trung vào phát triển kinh tế, tranh thủ những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới tạo đà thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển mạnh các ngành công nghiệp, dịch vụ. Ngược lại cũng xuất hiện những thách thức lớn là sức ép cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ nước ngoài tăng mạnh. Do đó, chính sách thuế nói chung và thuế tiêu thụ đặc biệt nói riêng cần phải đổi mới và hoàn thiện hơn nữa, góp phần đắc lực vào tiến trình hội nhập.
Đại học Luật Hà Nội
Tài liệu tham khảo
1. Đại học Luật Hà Nội (2014), Giáo trình Luật Thuế Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
2. Giáo trình lý thuyết tài chính, Dương Đăng Chính (2009), Nxb. Tài chính.
3. Đại học Kinh tế Quốc dân (2002), Giáo trình Quản lý thuế, Nxb. Thống kê.
4. Nguyễn Thị Việt Anh (2014), Hoàn thiện pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
5. Nguyễn Trọng Nghĩa (2012), Những vấn đề lý luận và thực tiễn hoàn thiện thể chế tài chính 2011 - 2020, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ.
6. Phạm Thị Giang Thu (2007), Giáo trình Luật thuế Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
7. Lê Thị Thu Thủy (2005), Giáo trình Luật Tài chính Việt Nam, Đại học Khoa học Huế, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.