Trong hoạt động điều tra, xét xử vụ án hình sự, việc chứng minh có hay không có hành vi phạm tội là hết sức quan trọng, quyết định đến toàn bộ tiến trình giải quyết vụ án. Do đó, để xác định một người là người phạm tội nhằm truy cứu, áp dụng trách nhiệm hình sự đối với họ, Nhà nước ta đang giao nhiệm vụ này cho các cơ quan tiến hành tố tụng, cụ thể là: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án.
1. Trách nhiệm chứng minh tội phạm trong tố tụng hình sự
Theo Từ điển tiếng Việt, “trách nhiệm” là: “1. Phần việc được giao cho hoặc coi như được giao cho, phải bảo đảm làm tròn, nếu kết quả không tốt thì phải gánh chịu phần hậu quả; 2. Sự ràng buộc đối với lời nói, hành vi của mình, bảo đảm đúng đắn, nếu sai trái thì phải gánh chịu phần hậu quả”[1]. Có thể hiểu, trách nhiệm là điều phải làm, phải “gánh vác”, là sự ràng buộc đối với hành vi, lời nói của mình, bảo đảm làm đúng đắn, bảo đảm công việc hay nghĩa vụ của mỗi người phải tuân thủ các nguyên tắc, mang tính tự giác cao nhằm thực hiện hoặc hoàn thành một cách tốt nhất, nếu sai trái thì phải chịu hậu quả.
Hoạt động chứng minh được hiểu là hoạt động tư duy hay thực tiễn của con người, có mục đích xác định sự tồn tại hay không tồn tại hoặc sự đúng, sai của một sự vật, hiện tượng trên cơ sở của những chứng cứ, căn cứ cụ thể. Hoạt động chứng minh được sử dụng phổ biến trong mọi lĩnh vực của xã hội loài người, có thể trong lĩnh vực dân sự, thương mại, hành chính, hình sự…
Hoạt động chứng minh trong tố tụng hình sự là một dạng của hoạt động chứng minh nói chung nhưng khác biệt ở chỗ, hoạt động này là hoạt động mang tính chất pháp lý được điều chỉnh bởi Bộ luật Tố tụng hình sự và pháp luật liên quan, được thực hiện bởi các chủ thể có quyền, nghĩa vụ cụ thể. Nó là công cụ để cơ quan tiến hành tố tụng nhận thức được chính xác sự việc đã xảy ra trên thực tế, làm cơ sở để phán quyết giải quyết vụ án hình sự chính xác, khách quan, công bằng.
Trong điều tra, xét xử vụ án hình sự, để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một cá nhân nào đó, điều kiện tiên quyết là phải chứng minh được hành vi của người đó thỏa mãn các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm cụ thể. Do đó, việc xác định trách nhiệm chứng minh tội phạm trong vụ án hình sự có ý nghĩa, vai trò vô cùng quan trọng. Đó là những nền tảng vững chắc cho việc giải quyết vụ án nhanh chóng, chính xác, khách quan, đúng đắn, đúng người, đúng tội, công bằng, bảo đảm được tính nghiêm minh của pháp luật và nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa trong pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2021 (Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015) quy định về chứng minh tội phạm như sau:
- Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội (Điều 15); cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng gồm cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (điểm a khoản 1 Điều 4); cơ quan tiến hành tố tụng gồm: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án (khoản 1 Điều 34).
- Cơ quan được giao nhiệm giao vụ tiến hành một số hoạt động điều tra gồm: Các cơ quan của Bộ đội Biên phòng; các cơ quan của Hải quan; các cơ quan của Kiểm lâm; các cơ quan của lực lượng Cảnh sát biển; các cơ quan của Kiểm ngư; các cơ quan của Công an nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; các cơ quan khác trong Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (khoản 1 Điều 35).
Việc quy định trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng là hoàn toàn hợp lý, bởi, theo nguyên tắc suy đoán vô tội thì người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Điều này cũng có nghĩa là thừa nhận người bị buộc tội không có nghĩa vụ phải chứng minh sự vô tội của mình.
Chứng minh tội phạm là một quá trình diễn ra ở cả giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố và giai đoạn xét xử. Quyền và trách nhiệm chứng minh tội phạm không chỉ thuộc về Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát mà còn thuộc về Tòa án nhằm bảo vệ quyền lợi của bị can, bị cáo theo nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
2. Thực trạng thi hành pháp luật về trách nhiệm chứng minh tội phạm trong tố tụng hình sự
Việc nghiên cứu về trách nhiệm chứng minh tội phạm trong tố tụng hình sự hiện nay đang được đặt ra bức thiết, nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu nhằm phân tích mối liên hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình chứng minh tội phạm cũng như chỉ ra những điểm bất cập, hạn chế, tồn tại khi quy định trách nhiệm chứng minh cho các cơ quan tiến hành tố tụng, từ đó đưa ra được những giải pháp có tính khả thi nhằm khắc phục những hạn chế còn tồn tại trong việc thực hiện trách nhiệm chứng minh trong tố tụng hình sự trong giai đoạn cải cách tư pháp hiện nay.
Quá trình thực hiện Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đến nay và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đạt được nhiều thành tựu, góp phần đạt được mục tiêu hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Những năm qua, chất lượng công tác phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự có nhiều chuyển biến tích cực, hạn chế tối đa để xảy ra oan sai, bỏ lọt tội phạm, xét xử bảo đảm đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, hạn chế tối đa để xảy ra các khiếu kiện, tố cáo xuất phát từ những thiếu sót trong hoạt động tư pháp. Trên cơ sở đó, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định thủ tục giải quyết vụ án bảo đảm các nguyên tắc Tòa án xét xử kịp thời, công bằng, công khai, minh bạch trong hoạt động tư pháp, khẳng định trách nhiệm giải trình hoạt động tư pháp của cơ quan tư pháp (Điều 25 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015), nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử (Điều 26 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015), thực hiện tốt và hiệu quả việc hợp tác quốc tế về tương trợ tư pháp trong tố tụng hình sự.
Tuy nhiên, thực tiễn thực thi nguyên tắc “xác định sự thật của vụ án” trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam vẫn đang còn nhiều vấn đề tồn tại, bất cập. Trên thực tế, chỉ cần một sai sót nhỏ từ phía cơ quan tiến hành tố tụng cũng sẽ gây thiệt hại đối với người bị kết án, dẫn đến còn những vụ án oan sai hoặc “sót người, lọt tội”. Hiện nay, tình trạng án oan sai, sót người, lọt tội vẫn còn tồn tại gây bức xúc trong dư luận. Một số bất cập, vướng mắc trong quá trình thi hành pháp luật về trách nhiệm chứng minh tội phạm trong tố tụng hình sự có thể kể đến:
Thứ nhất, việc quy định trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng như hiện nay, vô hình trung đã trao cho ba cơ quan này về “cùng một bên” trong hoạt động chứng minh tội phạm. Trên thực tế, hiện nay, trước khi xử án, bằng những con đường chính thức hoặc không chính thức, có tình trạng ba cơ quan này đã có sự tiếp xúc để thảo luận về kết quả bản án, dẫn đến có tình trạng án “bỏ túi”, gây bức xúc trong dư luận nhân dân hiện nay.
Thứ hai, do trình độ và nhận thức chưa cao, ý thức chấp hành pháp luật chưa tốt của một bộ phận không nhỏ những người tiến hành tố tụng dẫn đến việc không chứng minh được hành vi phạm tội, khiến cho tiến trình giải quyết vụ án bị ngưng trệ, đi vào bế tắc, thậm chí truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người không thực hiện tội phạm, gây oan sai, gây tổn hại nghiêm trọng về tinh thần, vật chất cho người bị kết án.
Thứ ba, luật sư đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của bị can, bị cáo. Luật sư là người đưa ra những chứng cứ, bào chữa gỡ tội cho bị can, bị cáo. Tuy nhiên, pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam vẫn chưa thực sự tạo điều kiện tham gia chứng minh tội phạm của luật sư trong vụ án hình sự. Điều này đã làm giảm đi vai trò, vị thế tranh tụng tại phiên tòa, khiến cho luật sư có vị thế thấp hơn kiểm sát viên thực hành quyền công tố.
Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, vấn đề quyền con người đang được toàn cầu quan tâm, nếu không thực hiện tốt vấn đề này sẽ ảnh hưởng đến hội nhập và tiến trình phát triển chung của thế giới.
Thứ tư, trong quá trình xét xử, Tòa án đứng ở vị trí người phân xử công minh, khách quan, công bằng. Như vậy, nếu thực hiện trình tự tố tụng tranh tụng, Tòa án là cơ quan đứng giữa cơ quan công tố và bị cáo. Việc quy định Tòa án có nghĩa vụ phải chứng minh tội phạm là không khả thi trong điều kiện tổ chức bộ máy cán bộ của hệ thống Tòa án hiện nay và có thể dẫn đến xu hướng “đẩy” Tòa án về phía cơ quan công tố, nghĩa là, Tòa án phải thực hiện công việc “chứng minh tội phạm” trong quá trình xét xử. Vẫn còn tình trạng việc xét xử dựa vào “nhận tội” của bị cáo là chính hoặc căn cứ vào những chứng cứ thiếu vững chắc… Điều này không phù hợp với mục tiêu nâng cao được vị thế độc lập của Tòa án trong hệ thống tư pháp trong tiến trình cải cách tư pháp ở nước ta.
3. Đề xuất, kiến nghị
Trong bối cảnh tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay, yêu cầu cấp thiết nhanh chóng hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự nói chung, trong đó có quy định pháp luật về trách nhiệm chứng minh tội phạm cần đáp ứng 03 yêu cầu lớn: Cải cách hệ thống tư pháp, hội nhập quốc tế và bảo vệ quyền con người. Trên cơ sở phân tích những bất cập, vướng mắc nêu trên, tác giả có một số đề xuất, kiến nghị như sau:
Thứ nhất, xây dựng hệ thống cơ quan điều tra thống nhất gồm Cơ quan điều tra của Công an và Cơ quan điều tra của Quân đội.
Thứ hai, về thẩm quyền của Viện kiểm sát, quy định Viện kiểm sát có quyền trực tiếp điều tra vụ án hình sự với tư cách là cơ quan công tố; trách nhiệm xét hỏi để chứng minh tội phạm chủ yếu thuộc về Viện kiểm sát; bảo đảm Viện kiểm sát có thể chủ động quản lý được đầy đủ các nguồn tố giác, tin báo về tội phạm diễn ra và bảo đảm các tố giác, tin báo đó đều được tiến hành xác minh, giải quyết đúng quy định của pháp luật; bổ sung thẩm quyền khởi tố bị can của Viện kiểm sát trong trường hợp Cơ quan điều tra không thực hiện khởi tố, đồng thời, yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra. Quy định thêm phạm vi, điều kiện để Viện kiểm sát có quyền lựa chọn việc không truy tố (miễn tố) đối với một số loại tội phạm hoặc trường hợp phạm tội cụ thể khi xét thấy việc truy tố không phục vụ lợi ích của cộng đồng cũng như cá nhân, không được xã hội ủng hộ.
Thứ ba, về thẩm quyền của Tòa án, cần nghiên cứu bỏ quy định về quyền khởi tố vụ án hình sự và trách nhiệm chứng minh tội phạm của Tòa án.
Thứ tư, quy định cụ thể các quyền của người bào chữa trong vụ án hình sự, trình tự thu thập tài liệu, chứng cứ của người bào chữa và việc xem xét, đánh giá chứng cứ mà họ cung cấp phải ngang bằng với các chứng cứ do các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập.
Thứ năm, thực hiện một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác chứng minh tội phạm: (i) Đổi mới công tác sắp xếp cán bộ, đầu tư phương tiện kỹ thuật hình sự phục vụ hoạt động điều tra và hoạt động giám định; (ii) Nâng cao trình độ pháp lý, nghiệp vụ, ý thức trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp, đề cao tinh thần trách nhiệm, lương tâm nghề nghiệp của người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng khác; (iii) Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, thực hiện có hiệu quả các biện pháp bảo đảm cho công dân tham gia tích cực vào việc điều tra chứng minh tội phạm./.
ThS. Ngô Doanh
Phó Viện trưởng Viện Quản trị Kinh tế Việt Nam
[1]. Hoàng Phê chủ biên, Nxb. Đà Nẵng, 1997, tr. 985.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 404), tháng 5/2024)