Thứ sáu 27/06/2025 11:26
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Thực trạng thi hành pháp luật về trách nhiệm chứng minh tội phạm trong tố tụng hình sự

Bài viết này phân tích một số vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn về trách nhiệm chứng minh tội phạm trong tố tụng hình sự, góp phần hoàn thiện nhận thức và áp dụng các quy định trong thực tiễn khi giải quyết vụ án hình sự và từ đó, đề xuất, kiến nghị phương hướng hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến trách nhiệm chứng minh trong tố tụng hình sự.

Trong hoạt động điều tra, xét xử vụ án hình sự, việc chứng minh có hay không có hành vi phạm tội là hết sức quan trọng, quyết định đến toàn bộ tiến trình giải quyết vụ án. Do đó, để xác định một người là người phạm tội nhằm truy cứu, áp dụng trách nhiệm hình sự đối với họ, Nhà nước ta đang giao nhiệm vụ này cho các cơ quan tiến hành tố tụng, cụ thể là: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án.

1. Trách nhiệm chứng minh tội phạm trong tố tụng hình sự

Theo Từ điển tiếng Việt, “trách nhiệm” là: “1. Phần việc được giao cho hoặc coi như được giao cho, phải bảo đảm làm tròn, nếu kết quả không tốt thì phải gánh chịu phần hậu quả; 2. Sự ràng buộc đối với lời nói, hành vi của mình, bảo đảm đúng đắn, nếu sai trái thì phải gánh chịu phần hậu quả”[1]. Có thể hiểu, trách nhiệm là điều phải làm, phải “gánh vác”, là sự ràng buộc đối với hành vi, lời nói của mình, bảo đảm làm đúng đắn, bảo đảm công việc hay nghĩa vụ của mỗi người phải tuân thủ các nguyên tắc, mang tính tự giác cao nhằm thực hiện hoặc hoàn thành một cách tốt nhất, nếu sai trái thì phải chịu hậu quả.

Hoạt động chứng minh được hiểu là hoạt động tư duy hay thực tiễn của con người, có mục đích xác định sự tồn tại hay không tồn tại hoặc sự đúng, sai của một sự vật, hiện tượng trên cơ sở của những chứng cứ, căn cứ cụ thể. Hoạt động chứng minh được sử dụng phổ biến trong mọi lĩnh vực của xã hội loài người, có thể trong lĩnh vực dân sự, thương mại, hành chính, hình sự…

Hoạt động chứng minh trong tố tụng hình sự là một dạng của hoạt động chứng minh nói chung nhưng khác biệt ở chỗ, hoạt động này là hoạt động mang tính chất pháp lý được điều chỉnh bởi Bộ luật Tố tụng hình sự và pháp luật liên quan, được thực hiện bởi các chủ thể có quyền, nghĩa vụ cụ thể. Nó là công cụ để cơ quan tiến hành tố tụng nhận thức được chính xác sự việc đã xảy ra trên thực tế, làm cơ sở để phán quyết giải quyết vụ án hình sự chính xác, khách quan, công bằng.

Trong điều tra, xét xử vụ án hình sự, để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một cá nhân nào đó, điều kiện tiên quyết là phải chứng minh được hành vi của người đó thỏa mãn các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm cụ thể. Do đó, việc xác định trách nhiệm chứng minh tội phạm trong vụ án hình sự có ý nghĩa, vai trò vô cùng quan trọng. Đó là những nền tảng vững chắc cho việc giải quyết vụ án nhanh chóng, chính xác, khách quan, đúng đắn, đúng người, đúng tội, công bằng, bảo đảm được tính nghiêm minh của pháp luật và nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa trong pháp luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng.

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2021 (Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015) quy định về chứng minh tội phạm như sau:

- Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội (Điều 15); cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng gồm cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (điểm a khoản 1 Điều 4); cơ quan tiến hành tố tụng gồm: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án (khoản 1 Điều 34).

- Cơ quan được giao nhiệm giao vụ tiến hành một số hoạt động điều tra gồm: Các cơ quan của Bộ đội Biên phòng; các cơ quan của Hải quan; các cơ quan của Kiểm lâm; các cơ quan của lực lượng Cảnh sát biển; các cơ quan của Kiểm ngư; các cơ quan của Công an nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; các cơ quan khác trong Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (khoản 1 Điều 35).

Việc quy định trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng là hoàn toàn hợp lý, bởi, theo nguyên tắc suy đoán vô tội thì người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Điều này cũng có nghĩa là thừa nhận người bị buộc tội không có nghĩa vụ phải chứng minh sự vô tội của mình.

Chứng minh tội phạm là một quá trình diễn ra ở cả giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố và giai đoạn xét xử. Quyền và trách nhiệm chứng minh tội phạm không chỉ thuộc về Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát mà còn thuộc về Tòa án nhằm bảo vệ quyền lợi của bị can, bị cáo theo nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.

2. Thực trạng thi hành pháp luật về trách nhiệm chứng minh tội phạm trong tố tụng hình sự

Việc nghiên cứu về trách nhiệm chứng minh tội phạm trong tố tụng hình sự hiện nay đang được đặt ra bức thiết, nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu nhằm phân tích mối liên hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình chứng minh tội phạm cũng như chỉ ra những điểm bất cập, hạn chế, tồn tại khi quy định trách nhiệm chứng minh cho các cơ quan tiến hành tố tụng, từ đó đưa ra được những giải pháp có tính khả thi nhằm khắc phục những hạn chế còn tồn tại trong việc thực hiện trách nhiệm chứng minh trong tố tụng hình sự trong giai đoạn cải cách tư pháp hiện nay.

Quá trình thực hiện Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đến nay và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đạt được nhiều thành tựu, góp phần đạt được mục tiêu hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Những năm qua, chất lượng công tác phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự có nhiều chuyển biến tích cực, hạn chế tối đa để xảy ra oan sai, bỏ lọt tội phạm, xét xử bảo đảm đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, hạn chế tối đa để xảy ra các khiếu kiện, tố cáo xuất phát từ những thiếu sót trong hoạt động tư pháp. Trên cơ sở đó, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định thủ tục giải quyết vụ án bảo đảm các nguyên tắc Tòa án xét xử kịp thời, công bằng, công khai, minh bạch trong hoạt động tư pháp, khẳng định trách nhiệm giải trình hoạt động tư pháp của cơ quan tư pháp (Điều 25 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015), nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử (Điều 26 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015), thực hiện tốt và hiệu quả việc hợp tác quốc tế về tương trợ tư pháp trong tố tụng hình sự.

Tuy nhiên, thực tiễn thực thi nguyên tắc “xác định sự thật của vụ án” trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam vẫn đang còn nhiều vấn đề tồn tại, bất cập. Trên thực tế, chỉ cần một sai sót nhỏ từ phía cơ quan tiến hành tố tụng cũng sẽ gây thiệt hại đối với người bị kết án, dẫn đến còn những vụ án oan sai hoặc “sót người, lọt tội”. Hiện nay, tình trạng án oan sai, sót người, lọt tội vẫn còn tồn tại gây bức xúc trong dư luận. Một số bất cập, vướng mắc trong quá trình thi hành pháp luật về trách nhiệm chứng minh tội phạm trong tố tụng hình sự có thể kể đến:

Thứ nhất, việc quy định trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng như hiện nay, vô hình trung đã trao cho ba cơ quan này về “cùng một bên” trong hoạt động chứng minh tội phạm. Trên thực tế, hiện nay, trước khi xử án, bằng những con đường chính thức hoặc không chính thức, có tình trạng ba cơ quan này đã có sự tiếp xúc để thảo luận về kết quả bản án, dẫn đến có tình trạng án “bỏ túi”, gây bức xúc trong dư luận nhân dân hiện nay.

Thứ hai, do trình độ và nhận thức chưa cao, ý thức chấp hành pháp luật chưa tốt của một bộ phận không nhỏ những người tiến hành tố tụng dẫn đến việc không chứng minh được hành vi phạm tội, khiến cho tiến trình giải quyết vụ án bị ngưng trệ, đi vào bế tắc, thậm chí truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người không thực hiện tội phạm, gây oan sai, gây tổn hại nghiêm trọng về tinh thần, vật chất cho người bị kết án.

Thứ ba, luật sư đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của bị can, bị cáo. Luật sư là người đưa ra những chứng cứ, bào chữa gỡ tội cho bị can, bị cáo. Tuy nhiên, pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam vẫn chưa thực sự tạo điều kiện tham gia chứng minh tội phạm của luật sư trong vụ án hình sự. Điều này đã làm giảm đi vai trò, vị thế tranh tụng tại phiên tòa, khiến cho luật sư có vị thế thấp hơn kiểm sát viên thực hành quyền công tố.

Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, vấn đề quyền con người đang được toàn cầu quan tâm, nếu không thực hiện tốt vấn đề này sẽ ảnh hưởng đến hội nhập và tiến trình phát triển chung của thế giới.

Thứ tư, trong quá trình xét xử, Tòa án đứng ở vị trí người phân xử công minh, khách quan, công bằng. Như vậy, nếu thực hiện trình tự tố tụng tranh tụng, Tòa án là cơ quan đứng giữa cơ quan công tố và bị cáo. Việc quy định Tòa án có nghĩa vụ phải chứng minh tội phạm là không khả thi trong điều kiện tổ chức bộ máy cán bộ của hệ thống Tòa án hiện nay và có thể dẫn đến xu hướng “đẩy” Tòa án về phía cơ quan công tố, nghĩa là, Tòa án phải thực hiện công việc “chứng minh tội phạm” trong quá trình xét xử. Vẫn còn tình trạng việc xét xử dựa vào “nhận tội” của bị cáo là chính hoặc căn cứ vào những chứng cứ thiếu vững chắc… Điều này không phù hợp với mục tiêu nâng cao được vị thế độc lập của Tòa án trong hệ thống tư pháp trong tiến trình cải cách tư pháp ở nước ta.

3. Đề xuất, kiến nghị

Trong bối cảnh tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay, yêu cầu cấp thiết nhanh chóng hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự nói chung, trong đó có quy định pháp luật về trách nhiệm chứng minh tội phạm cần đáp ứng 03 yêu cầu lớn: Cải cách hệ thống tư pháp, hội nhập quốc tế và bảo vệ quyền con người. Trên cơ sở phân tích những bất cập, vướng mắc nêu trên, tác giả có một số đề xuất, kiến nghị như sau:

Thứ nhất, xây dựng hệ thống cơ quan điều tra thống nhất gồm Cơ quan điều tra của Công an và Cơ quan điều tra của Quân đội.

Thứ hai, về thẩm quyền của Viện kiểm sát, quy định Viện kiểm sát có quyền trực tiếp điều tra vụ án hình sự với tư cách là cơ quan công tố; trách nhiệm xét hỏi để chứng minh tội phạm chủ yếu thuộc về Viện kiểm sát; bảo đảm Viện kiểm sát có thể chủ động quản lý được đầy đủ các nguồn tố giác, tin báo về tội phạm diễn ra và bảo đảm các tố giác, tin báo đó đều được tiến hành xác minh, giải quyết đúng quy định của pháp luật; bổ sung thẩm quyền khởi tố bị can của Viện kiểm sát trong trường hợp Cơ quan điều tra không thực hiện khởi tố, đồng thời, yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra. Quy định thêm phạm vi, điều kiện để Viện kiểm sát có quyền lựa chọn việc không truy tố (miễn tố) đối với một số loại tội phạm hoặc trường hợp phạm tội cụ thể khi xét thấy việc truy tố không phục vụ lợi ích của cộng đồng cũng như cá nhân, không được xã hội ủng hộ.

Thứ ba, về thẩm quyền của Tòa án, cần nghiên cứu bỏ quy định về quyền khởi tố vụ án hình sự và trách nhiệm chứng minh tội phạm của Tòa án.

Thứ tư, quy định cụ thể các quyền của người bào chữa trong vụ án hình sự, trình tự thu thập tài liệu, chứng cứ của người bào chữa và việc xem xét, đánh giá chứng cứ mà họ cung cấp phải ngang bằng với các chứng cứ do các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập.

Thứ năm, thực hiện một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác chứng minh tội phạm: (i) Đổi mới công tác sắp xếp cán bộ, đầu tư phương tiện kỹ thuật hình sự phục vụ hoạt động điều tra và hoạt động giám định; (ii) Nâng cao trình độ pháp lý, nghiệp vụ, ý thức trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp, đề cao tinh thần trách nhiệm, lương tâm nghề nghiệp của người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng khác; (iii) Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, thực hiện có hiệu quả các biện pháp bảo đảm cho công dân tham gia tích cực vào việc điều tra chứng minh tội phạm./.

ThS. Ngô Doanh

Phó Viện trưởng Viện Quản trị Kinh tế Việt Nam

[1]. Hoàng Phê chủ biên, Nxb. Đà Nẵng, 1997, tr. 985.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 404), tháng 5/2024)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Thúc đẩy hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp - Thách thức từ chính sách thuế mới và giải pháp

Thúc đẩy hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp - Thách thức từ chính sách thuế mới và giải pháp

Khuyến khích hộ kinh doanh chuyển đổi sang doanh nghiệp là chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, góp phần thực hiện mục tiêu phấn đấu có 02 triệu doanh nghiệp đến năm 2030 và 03 triệu doanh nghiệp đến năm 2045. Để chính sách phát huy hiệu quả cũng cần có những giải pháp để khắc phục những khó khăn, thách thức. Đây là một trong những nội dung nhận được sự quan tâm của dư luận xã hội và được các đại biểu Quốc hội chất vấn tại Phiên chất vấn về nhóm vấn đề thứ nhất thuộc lĩnh vực tài chính diễn ra vào sáng ngày 19/6/2025.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính tập trung xử lý những lĩnh vực mới phát sinh, đòi hỏi cấp thiết từ thực tiễn và đang có “khoảng trống” pháp lý

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính tập trung xử lý những lĩnh vực mới phát sinh, đòi hỏi cấp thiết từ thực tiễn và đang có “khoảng trống” pháp lý

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh tại phiên họp toàn thể tại Hội trường Quốc hội sáng ngày 25/6/2025 về Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Với 435/435 đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành (đạt tỷ lệ 100% đại biểu tham gia biểu quyết), Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam với nhiều quy định “mở”, góp phần thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao đóng góp vào sự phát triển của đất nước

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam với nhiều quy định “mở”, góp phần thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao đóng góp vào sự phát triển của đất nước

Sáng 24/6/2025, với 416/416 đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành (đạt tỷ lệ 100% đại biểu có mặt), Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam.
Vai trò của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Vai trò của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Ngày 16/6/2025, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật số 72/2025/QH15 (Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025) đã nâng tầm vị trí, vai trò, chức năng của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo hướng chuyển đổi từ tư duy điều hành tập thể sang phát huy vai trò cá nhân, gắn với chế độ, trách nhiệm rõ ràng, cụ thể. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh không chỉ là người đứng đầu về mặt hành chính mà còn là hạt nhân điều hành, góp phần hiện thực hóa mô hình quản trị địa phương hiện đại.
Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh khi trao đổi với chúng tôi về 28 nghị định của Chính phủ về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương 02 cấp.
Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Định hướng lập pháp nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI của Chính phủ

Định hướng lập pháp nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI của Chính phủ

Ngày 10/4/2025, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 745/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Định hướng lập pháp nhiệm kỳ Quốc hội khóa XVI của Chính phủ” (Đề án).
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.

Theo dõi chúng tôi trên:

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm