Thứ tư 16/07/2025 08:04
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Tình hình buôn lậu ở miền Đông Nam Bộ - Nguyên nhân và giải pháp

Trong phạm vi bài viết này, tác giả tập trung nghiên cứu về các nguyên nhân của tình hình buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ, từ đó, đề xuất một số giải pháp phòng ngừa tội phạm trên địa bàn này.

Hiện nay, tình hình buôn lậu vẫn đang xảy ra, diễn biến ngày càng phức tạp trên địa bàn nhiều tỉnh thành trong cả nước. Trong đó, miền Đông Nam Bộ luôn được xác định là điểm nóng, là một trong những địa bàn tiêu thụ hàng hóa với sức mua rất lớn, trong đó có nhiều hàng hóa nhập lậu; đồng thời là nơi tập kết, trung chuyển của nhiều loại hàng hóa từ nước ngoài nhập lậu vào Việt Nam và đưa đi các tỉnh khác. Hoạt động buôn lậu diễn ra trên tất cả các tuyến, tập trung tại các tuyến biên giới và tuyến đường biển.

Buôn lậu và gian lận thương mại ở nước ta đã xuất hiện từ nhiều năm nay và đặc biệt phát triển sau khi mở cửa thị trường, tăng cường hội nhập với diễn biến ngày càng phức tạp trên tất cả các tuyến, bằng nhiều hình thức khác nhau. Là quốc gia đang phát triển có quy mô dân số hơn 90 triệu người, nằm ở trung tâm khu vực sản xuất năng động của thế giới, vì vậy, Việt Nam nói chung và miền Đông Nam Bộ nói riêng luôn là địa điểm “hấp dẫn” đối với hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả.

Hiện nay, tình hình buôn lậu vẫn đang xảy ra, diễn biến ngày càng phức tạp trên địa bàn nhiều tỉnh thành trong cả nước. Trong đó, miền Đông Nam Bộ luôn được xác định là điểm nóng, là một trong những địa bàn tiêu thụ hàng hóa với sức mua rất lớn, trong đó có nhiều hàng hóa nhập lậu; đồng thời là nơi tập kết, trung chuyển của nhiều loại hàng hóa từ nước ngoài nhập lậu vào Việt Nam và đưa đi các tỉnh, thành khác. Hoạt động buôn lậu diễn ra trên tất cả các tuyến, tập trung tại các tuyến biên giới và tuyến đường biển.

1. Nguyên nhân của tình hình buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ

1.1. Nguyên nhân do hạn chế của pháp luật về phòng, chống buôn lậu

Việc triển khai các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn rất khó khăn bởi hệ thống pháp luật của nước ta chưa đồng bộ, còn chồng chéo, quy định pháp luật còn thiếu, nhiều điều luật còn chưa phù hợp dẫn đến việc áp dụng khó khăn, hiệu quả thấp. Bên cạnh đó, hệ thống văn bản pháp luật về quản lý xuất nhập khẩu và chống buôn lậu còn chung chung, thiếu những chế tài cụ thể và nghiêm minh, không đồng bộ hoặc có kẽ hở để tội phạm lợi dụng buôn lậu, buôn bán hàng cấm, vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ, thuốc lá lậu… qua biên giới.

Theo quy định tại Điều 188 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì hành vi khách quan của tội buôn lậu là buôn bán trái phép hàng hóa qua biên giới ở định lượng luật định. Mục đích của hành vi buôn lậu là kiếm lợi nhuận. Đây là đặc điểm quan trọng để phân biệt tội buôn lậu với tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới (Điều 189). Trên thực tế, việc chứng minh mục đích buôn bán kiếm lời của người phạm tội rất khó khăn vì người phạm tội thường không thừa nhận mục đích này để được xử lý về tội nhẹ hơn. Chính vì vậy, đây cũng là một khó khăn, hạn chế trong thực tiễn xử lý tội buôn lậu.

Về pháp luật hình sự, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã mở rộng khái niệm tội phạm quy định tại Điều 8 bao gồm cả chủ thể của tội phạm là pháp nhân thương mại phạm tội. Đồng thời, Điều 76 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân, trong đó có tội buôn lậu (Điều 188). Mặt khác, Điều 424 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã có những quy định về những điều cần chứng minh trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân. Tuy nhiên, cho đến nay, những quy định rất mới này của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 vẫn chưa có văn bản hướng dẫn, trong khi nhận thức của những người tiến hành tố tụng về các vấn đề này còn hạn chế, còn tồn tại các quan điểm khác nhau, thiếu thống nhất. Chính sự thiếu vắng các văn bản hướng dẫn trong bối cảnh lần đầu tiên nước ta quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân là một trong những nguyên nhân, điều kiện tồn tại của tình hình tội buôn lậu do pháp nhân thương mại thực hiện.

Ngoài ra, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại nhưng trong suốt thời gian qua chỉ có một vụ án liên quan đến pháp nhân bị khởi tố[1]. Có thể thấy rằng, đây là một hạn chế trong thực tiễn phòng ngừa tội buôn lậu do pháp nhân thượng mại thực hiện.

1.2. Nguyên nhân do hạn chế trong quản lý phòng chống buôn lậu

- Vùng Đông Nam Bộ là địa bàn tương đối rộng và phức tạp, hoạt động quản lý của các cấp, các ngành và của từng địa phương gặp rất nhiều khó khăn. Trình độ, kinh nghiệm quản lý và điều hành kinh tế còn nhiều hạn chế, nền sản xuất trong nước còn chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước cả về chủng loại cũng như chất lượng hàng hóa. Điều này dẫn đến nhiều kẽ hở trong hoàn thiện việc điều hành, quản lý nền kinh tế.

- Các văn bản quy phạm pháp luật quy định về chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực quản lý, các bộ, ngành liên quan đến hoạt động chống buôn lậu không còn phù hợp. Hoạt động thanh tra, kiểm tra công vụ chưa được thường xuyên, hiệu quả thấp; việc xác định rõ trách nhiệm người đứng đầu theo từng địa bàn, lĩnh vực phụ trách chưa nghiêm; việc điều chuyển, đề xuất điều chuyển, thay thế người đứng đầu các cơ quan, đơn vị không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, có biểu hiện bao che, dung túng cho buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả, việc xử lý các vi phạm chưa nghiêm.

- Vấn đề quản lý về sự thành lập và hoạt động của các tổ chức kinh tế, các công ty, doanh nghiệp trong vùng còn hạn chế như thành lập tràn lan, dưới nhiều hình thức, tội phạm buôn lậu và tội phạm có tổ chức cũng “núp bóng” doanh nghiệp để hoạt động mà không bị xử lý hoặc bị xử lý nhưng mức phạt chưa cao, chưa có tính răn đe. Các đối tượng gian lận thương mại đã lợi dụng sự thông thoáng từ khâu thành lập doanh nghiệp, thuê mượn giấy tờ tùy thân để lập doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp được thành lập theo quy định pháp luật nhưng qua xác minh thì hầu hết là doanh nghiệp “ma”, khi cơ quan điều tra đến xác minh thì phát hiện ra đó chỉ là những doanh nghiệp trên giấy, không có hoạt động trong thực tế.

- Cơ quan trực tiếp được Chính phủ giao nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, xử lý hành vi buôn lậu tại địa bàn Đông Nam Bộ hoạt động chưa thực sự hiệu quả, việc triển khai chưa quyết liệt, đồng bộ các giải pháp để thực hiện nhiệm vụ được giao; gắn trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị với kết quả thực hiện nhiệm vụ chưa sâu sát.

- Hoạt động chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả thông qua các hoạt động hỗ trợ từ phía các hiệp hội, tổ chức, cộng đồng doanh nghiệp trong và ngoài nước chưa được chú trọng và khai thác triệt để; hoạt động hợp tác quốc tế, phối hợp với các tổ chức, thương hiệu toàn cầu, hợp tác chống hàng trốn thuế còn lỏng lẻo và mang tính hình thức, chưa đi vào khuôn khổ.

- Hoạt động kiểm tra, xử lý vi phạm, đôn đốc của lực lượng quản lý thị trường triển khai các kế hoạch chuyên đề trọng điểm về chống buôn chưa đồng bộ, chưa làm tốt hoạt động điều tra cơ bản, nắm tình hình thị trường, lập danh sách đối tượng, cơ sở có biểu hiện nghi vấn buôn lậu, gian lận thương mại; các kho tàng, bến bãi chứa hàng lậu.

- Sự phối hợp với các lực lượng chức năng như: Hải quan, biên phòng, công an, cảnh sát biển và các cơ quan thanh tra chuyên ngành để xây dựng các phương án cụ thể kiểm tra, xử lý các đường dây, ổ nhóm, các đối tượng chủ mưu, cầm đầu; việc ngăn chặn kịp thời việc sản xuất, vận chuyển, buôn bán hàng cấm, hàng nhập lậu, hàng giả, hàng kém chất lượng trên thị trường nội địa, đặc biệt là địa bàn TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Bình Phước… còn chưa thực sự chặt chẽ.

1.3. Nguyên nhân do hạn chế trong xử lý và phòng ngừa tội phạm buôn lậu

- Hạn chế trong xử lý tội phạm buôn lậu: Việc thực thi các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm buôn lậu còn nhiều bất cập, kém hiệu quả như: Kết quả khởi tố, điều tra các vụ án buôn lậu còn thấp; đối tượng chủ mưu, “đầu nậu” lớn bị phát hiện, bắt giữ còn chiếm tỷ lệ ít; số vụ việc được phát hiện chủ yếu xử lý hành chính nên họ có điều kiện phạm tội trở lại.

- Hạn chế trong phòng ngừa riêng: Hoạt động đấu tranh phòng, chống nói chung và phòng ngừa nói riêng đối với tội phạm buôn lậu của các lực lượng chức năng còn một số hạn chế, thiếu sót. Việc kiểm tra, kiểm soát của các cơ quan chức năng như lực lượng quản lý thị trường, hải quan, cảnh sát kinh tế chưa được thống nhất, thường xuyên, tích cực, tạo nhiều kẽ hở cho các đối tượng buôn lậu hoạt động.

- Hạn chế về lực lượng phòng ngừa: Lực lượng trực tiếp đấu tranh phòng, chống tội phạm buôn lậu ở địa bàn miền Đông Nam Bộ, trong đó có lực lượng cảnh sát kinh tế còn mỏng, trình độ nghiệp vụ không đồng đều, một số cán bộ chiến sỹ vẫn còn biểu hiện lơ là, mất cảnh giác, hoặc có biểu hiện ngại va chạm; có nơi, có lúc còn biểu hiện buông lỏng quản lý, chưa có phương án phòng, chống thường xuyên để chủ động phòng ngừa, kiềm chế hành vi buôn lậu.

- Hạn chế về trang thiết bị, kinh phí: Trang thiết bị, kinh phí phục vụ hoạt động phòng, chống tội phạm buôn lậu còn hạn hẹp, do vậy, trên từng mặt chưa đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội phạm buôn lậu trong tình hình mới.

- Hạn chế trong việc phát huy sức mạnh tổng hợp: Người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền một số nơi, một số bộ, ban, ngành còn chưa quan tâm, chưa thực sự quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động kiểm tra, thanh tra, điều tra, phát hiện xử lý vi phạm pháp luật. Vai trò của các lực lượng chức năng ở cơ sở còn nhiều hạn chế, chưa xây dựng được lực lượng nòng cốt, chưa sâu sát nắm bắt tình hình cơ sở, khu dân cư. Trách nhiệm của một bộ phận cán bộ chuyên trách, người đứng đầu chưa cao, còn có biểu hiện tiêu cực, bao che, thậm chí “bảo kê” cho các hành vi vi phạm pháp luật; chưa kết hợp chặt chẽ giữa tích cực phòng ngừa và chủ động phát hiện tội phạm buôn lậu.

2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả phòng, chống buôn lậu trên địa bàn miền Đông Nam Bộ trong thời gian tới

Một là, hoàn thiện hệ thống giám sát cửa khẩu và biên giới: Giám sát cửa khẩu và biên giới rất quan trọng đối với phòng, chống buôn lậu. Để giám sát cửa khẩu tốt, cần chú trọng cả việc tổ chức lực lượng kết hợp với trang thiết bị hiện đại, cần tăng cường lắp đặt hệ thống camera thông minh ở khu vực cửa khẩu quốc tế để phòng, chống buôn lậu. Bên cạnh đó, lực lượng chuyên trách cũng cần tiến hành các hoạt động tâm lý, tuyên truyền, giáo dục để mỗi gia đình, mỗi hộ dân sống ở khu vực biên giới là một “biên phòng” cho đất nước nói chung và chống buôn lậu nói riêng. Phát huy sức mạnh của người dân trong phòng, chống buôn lậu cần được coi là biện pháp quan trọng cần được tiến hành bền bỉ, lâu dài, thường xuyên.

Hai là, kiểm soát tại các cảng hàng không, cảng biển: Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản về kiểm tra, giám sát an ninh hàng không và hàng hải, ví dụ như: Thông tư số 13/2019/TT-BGTVT ngày 29/3/2019 của Bộ Giao thông vận tải về quy định chi tiết Chương trình an ninh hàng không và kiểm soát chất lượng an ninh hàng không Việt Nam; Nghị định số 77/2017/NĐ-CP ngày 03/7/2017 của Chính phủ quy định về quản lý, bảo vệ an ninh, trật tự tại cửa khẩu cảng. Để giám sát cảng hàng không và cảng biển tốt, tăng hiệu quả phát hiện và xử lý buôn lậu thì cần triển khai thực hiện tốt nội dung trong các văn bản này. Đồng thời, tăng cường tổ chức lực lượng tinh nhuệ, vững vàng chuyên môn nghiệp vụ tại các cảng này.

Ba là, đẩy mạnh phát triển nền sản xuất trong nước nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam ngay trong thị trường nội địa và thị trường quốc tế, cần đổi mới quy trình, công nghệ sản xuất, cải tiến về mẫu mã hàng hóa, giảm thiểu các chi phí sản xuất để sản phẩm có giá phù hợp với mức sống trung bình của người dân, không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, từng bước hình thành tâm lý, thói quen dùng hàng sản xuất trong nước, chiếm lĩnh lòng tin của người tiêu dùng trong nước.

Bốn là, tăng cường chính sách thu hút, khuyến khích đầu tư của các doanh nghiệp tới các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, đặc biệt là các vùng giáp biên, ven biển, góp phần tạo công ăn việc làm, không ngừng nâng cao đời sống của người dân ở các khu vực biên giới, ven biển. Việc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo ở vùng biên giới phải được sự phối hợp lãnh đạo thống nhất của các cấp ủy Đảng và có sự tiến hành đồng bộ của chính quyền các cấp, các bộ, ngành liên quan...

Năm là, ban hành các thủ tục hải quan bảo đảm tạo thuận lợi cho doanh nghiệp kinh doanh thương mại điện tử lưu giữ hàng hóa tại kho ngoại quan trước khi giao hàng cho khách hàng bảo đảm quản lý được hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho doanh nghiệp, người tiêu dùng, nhất là nhận thức về hàng lậu, hàng cấm, hàng giả, hàng nhái.

Sáu là, tăng cường sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương, các lực lượng chức năng trong công tác quản lý của mình, chủ động phát hiện, đấu tranh ngăn chặn, phòng ngừa hiệu quả các hành vi buôn lậu, gian lận thương mại trong hoạt động thương mại điện tử; từng bước hoàn thiện cơ chế chính sách liên quan đến hoạt động thương mại điện tử.

Bảy là, hiện nay, hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung và pháp luật về phòng chống buôn lậu chưa được sự quan tâm đúng mức của các cấp, các ngành nên kết quả đạt được còn thấp so với yêu cầu, sự hiểu biết pháp luật của cán bộ, nhân dân còn nhiều hạn chế. Việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật không chỉ đơn thuần được thực hiện đối với cộng đồng dân cư mà còn phải được thực hiện ngay trong đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước, đặc biệt là những cán bộ chiến sỹ trực tiếp thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống buôn lậu bởi chính họ sẽ là người giải thích và áp dụng các quy định của pháp luật để chống lại nạn buôn lậu. Giáo dục, xây dựng tâm lý và nhận thức đúng đắn về việc không dùng hàng lậu, cần chú trọng việc tuyên truyền, giáo dục cho những tầng lớp, thành phần nhân dân khác nhau ý thức không dùng hàng rẻ do buôn lậu.

Tám là, rà soát, đánh giá, tổng kết thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về xuất nhập khẩu cũng như các vấn đề liên quan đến hoạt động ngoại thương. Sửa đổi, bổ sung các luật về thuế, đặc biệt là thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu để phù hợp với điều kiện mới hiện nay; mạnh dạn giảm thuế xuất nhập khẩu đối với những mặt hàng mà hàng nội địa có khả năng cạnh tranh. Xây dựng văn bản quy định về chuyển khẩu, tạm nhập, tái xuất, quá cảnh và văn bản quy định về quy chế quản lý hoạt động xuất nhập khẩu qua biên giới, chế độ miễn kiểm hóa... để tránh tình trạng rất nhiều tội phạm buôn lậu hiện nay lợi dụng kẽ hở của pháp luật về tạm nhập tái xuất, quá cảnh, trung chuyển để buôn lậu hàng hóa vào nước ta.

Chín là, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức làm việc trong các lực lượng có chức năng phòng, chống buôn lậu vững mạnh và tinh nhuệ; tập trung đào tạo và đào tạo lại nguồn cán bộ cho các lực lượng này theo hướng nâng cao trình độ và năng lực hoạt động. Bên cạnh đó, phải có chế độ đãi ngộ thích đáng đối với những người làm công tác phòng ngừa, đấu tránh chống buôn lậu (chính sách về tiền lương, phụ cấp, đào tạo...) để những người thực hiện hoạt động chống buôn lậu và gian lận thương mại yên tâm, dốc tâm vào thực hiện nhiệm vụ.

Mười là, tiếp tục đổi mới và hoàn thiện bộ máy nhà nước theo hướng tinh giản, khắc phục những bất cập, chồng chéo trong cơ chế quản lý. Tăng cường sự phối hợp hiệu quả giữa các chủ thể tham gia vào hoạt động phòng ngừa sẽ bảo đảm cho việc quản lý những hoạt động liên quan đến xuất nhập khẩu, ngoại thương được thống nhất và thông suốt, tránh tình trạng các cơ quan quản lý nhà nước đùn đẩy công việc cho nhau, tạo ra những khoảng trống trong quản lý để người buôn lậu lợi dụng thực hiện các hành vi phạm tội.

ThS. Nguyễn Đăng Phú

Đại học Lao động - Xã hội, TP. Hồ Chí Minh



1. Xem bài: Vụ án xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp được phát hiện như thế nào?,

http://m.cand.com.vn/Lan-theo-dau-vet-toi-pham/Vu-an-xam-pham-quyen-so-huu-cong-nghiep-duoc-phat-hien-nhu-the-nao-572863/, 06/12/2019.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Những điểm mới trong Luật Cán bộ, công chức năm 2025 góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu của nền hành chính hiện đại

Những điểm mới trong Luật Cán bộ, công chức năm 2025 góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu của nền hành chính hiện đại

Trong nền hành chính quốc gia Việt Nam, đội ngũ cán bộ, công chức là lực lượng trung tâm, giữ vai trò quyết định đến chất lượng hoạt động của bộ máy nhà nước. Mọi hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức đều có ảnh hưởng lớn đến uy tín của nền hành chính quốc gia, không chỉ phản ánh trình độ văn minh, hiện đại của nền hành chính mà còn phản ánh tính ưu việt của thể chế chính trị hiện hành. Vì vậy, việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức “vừa hồng, vừa chuyên” được coi là mục tiêu, nhiệm vụ cấp bách của cả hệ thống chính trị, tạo bước đột phá để đưa đất nước ta vững bước tiến vào kỷ nguyên mới.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân cấp xã từ 01/7/2025

Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân cấp xã từ 01/7/2025

Từ ngày 01/7/2025, mô hình tổ chức chính quyền địa phương hai cấp (cấp tỉnh và cấp xã) chính thức vận hành trên thực tiễn. Theo đó, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân cấp xã (xã, phường, đặc khu) được tăng cường, bảo đảm phù hợp với mục tiêu chính trị của nước ta trong tình hình mới.
Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân năm 2025 - Hành lang pháp lý quan trọng tạo môi trường số an toàn, bảo vệ quyền riêng tư của người dân

Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân năm 2025 - Hành lang pháp lý quan trọng tạo môi trường số an toàn, bảo vệ quyền riêng tư của người dân

Ngày 26/6/2025, Quốc hội đã thông qua Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân năm 2025, đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện hành lang pháp lý bảo vệ quyền riêng tư của người dân, doanh nghiệp, đặc biệt trong bối cảnh dữ liệu cá nhân ngày càng trở nên quan trọng và đang phải đối mặt với nhiều rủi ro bị đánh cắp, xâm phạm trên môi trường số.
Thúc đẩy hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp - Thách thức từ chính sách thuế mới và giải pháp

Thúc đẩy hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp - Thách thức từ chính sách thuế mới và giải pháp

Khuyến khích hộ kinh doanh chuyển đổi sang doanh nghiệp là chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, góp phần thực hiện mục tiêu phấn đấu có 02 triệu doanh nghiệp đến năm 2030 và 03 triệu doanh nghiệp đến năm 2045. Để chính sách phát huy hiệu quả cũng cần có những giải pháp để khắc phục những khó khăn, thách thức. Đây là một trong những nội dung nhận được sự quan tâm của dư luận xã hội và được các đại biểu Quốc hội chất vấn tại Phiên chất vấn về nhóm vấn đề thứ nhất thuộc lĩnh vực tài chính diễn ra vào sáng ngày 19/6/2025.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính tập trung xử lý những lĩnh vực mới phát sinh, đòi hỏi cấp thiết từ thực tiễn và đang có “khoảng trống” pháp lý

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính tập trung xử lý những lĩnh vực mới phát sinh, đòi hỏi cấp thiết từ thực tiễn và đang có “khoảng trống” pháp lý

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh tại phiên họp toàn thể tại Hội trường Quốc hội sáng ngày 25/6/2025 về Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Với 435/435 đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành (đạt tỷ lệ 100% đại biểu tham gia biểu quyết), Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam với nhiều quy định “mở”, góp phần thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao đóng góp vào sự phát triển của đất nước

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam với nhiều quy định “mở”, góp phần thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao đóng góp vào sự phát triển của đất nước

Sáng 24/6/2025, với 416/416 đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành (đạt tỷ lệ 100% đại biểu có mặt), Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam.
Vai trò của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Vai trò của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Ngày 16/6/2025, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật số 72/2025/QH15 (Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025) đã nâng tầm vị trí, vai trò, chức năng của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo hướng chuyển đổi từ tư duy điều hành tập thể sang phát huy vai trò cá nhân, gắn với chế độ, trách nhiệm rõ ràng, cụ thể. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh không chỉ là người đứng đầu về mặt hành chính mà còn là hạt nhân điều hành, góp phần hiện thực hóa mô hình quản trị địa phương hiện đại.
Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh khi trao đổi với chúng tôi về 28 nghị định của Chính phủ về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương 02 cấp.
Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.

Theo dõi chúng tôi trên:

he-thong-benh-vien-quoc-te-vinmec
trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm
cong-ty-co-phan-loc-hoa-dau-binh-son