1. Tình hình triển khai Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2017 - 2021
Để Chương trình được triển khai thống nhất, đồng bộ trên cả nước, Bộ Tư pháp đã xây dựng các văn bản hướng dẫn, đôn đốc các bộ, ngành, địa phương tổ chức, thực hiện Chương trình[2]. Trên cơ sở Chương trình và hướng dẫn của Bộ Tư pháp, một số bộ, ngành, đoàn thể trung ương đã ban hành văn bản chỉ đạo, hướng dẫn, triển khai thực hiện dưới nhiều hình thức[3]. Đặc biệt, để triển khai thực hiện Chương trình, lần đầu tiên Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ký Quyết định số 204/QĐ-TANDTC ngày 28/9/2017 ban hành Kế hoạch thực hiện Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2017 - 2021 trong toàn Ngành; Viện kiểm sát nhân dân tối cao xây dựng, dự kiến ban hành Đề án “Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật để thực hiện Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, góp phần phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật giai đoạn 2018 - 2022”; Tập đoàn Điện lực Việt Nam cũng đã ban hành Kế hoạch triển khai thực hiện Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2017 - 2021 phù hợp với đặc thù của Tập đoàn.
Thực hiện trách nhiệm được giao trong việc xây dựng, triển khai các đề án về phổ biến, giáo dục pháp luật, các bộ, ngành trung ương được giao chủ trì triển khai thực hiện đề án trong Chương trình đã phối hợp với Bộ Tư pháp, các cơ quan tổ chức liên quan xây dựng đề án và kế hoạch triển khai trong cả giai đoạn bám sát yêu cầu nhiệm vụ chính trị và điều kiện thực tiễn. Đã có 05 bộ, ngành (Bộ Quốc phòng; Bộ Tư pháp; Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội; Bộ Giáo dục và Đào tạo; Hội Luật gia Việt Nam) trình Bộ trưởng, Chủ tịch ban hành Kế hoạch tiếp tục triển khai thực hiện 05 đề án về phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2012 - 2016 đến năm 2021. Thủ tướng Chính phủ cũng đã kịp thời phê duyệt, quyết định ban hành 02 đề án phổ biến, giáo dục pháp luật (Bộ Công an, Ủy ban Dân tộc) theo Chương trình; ban hành 05 đề án phổ biến, giáo dục pháp luật về các lĩnh vực, chuyên đề khác trên cơ sở quán triệt nội dung, tinh thần chỉ đạo triển khai thực hiện công tác này theo Quyết định số 705/QĐ-TTg (Ủy ban Dân tộc, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Tư pháp, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam).
Bên cạnh đó, để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về công tác này, tránh chồng chéo, trùng lắp về mục tiêu và hoạt động, tránh lãng phí các nguồn lực đầu tư của Nhà nước, trên cơ sở trách nhiệm được giao theo Quyết định số 705/QĐ-TTg, công tác thẩm định, góp ý hoàn thiện dự thảo các đề án về phổ biến, giáo dục pháp luật trình Thủ tướng Chính phủ cũng như thẩm định kế hoạch triển khai thực hiện các đề án phổ biến, giáo dục pháp luật hàng năm ở Trung ương được Bộ Tư pháp chú trọng quan tâm thực hiện, tích cực góp phần triển khai các đề án này trên thực tế (năm 2017, Bộ Tư pháp đã tổ chức thẩm định, góp ý 19 đề án, kế hoạch thực hiện đề án về phổ biến, giáo dục pháp luật).
Trên cơ sở Chương trình và hướng dẫn của Bộ Tư pháp, 63/63 địa phương đã ban hành văn bản chỉ đạo, hướng dẫn, triển khai thực hiện Chương trình dưới nhiều hình thức phù hợp. Tùy điều kiện thực tế, các địa phương cũng đã ban hành các kế hoạch để triển khai các đề án giai đoạn 2017 - 2021 thuộc Chương trình. Một số địa phương đã chủ động ban hành kế hoạch tiếp tục thực hiện một số đề án về phổ biến, giáo dục pháp luật đã hết giai đoạn thực hiện[4]. Đặc biệt, để cụ thể hóa quan điểm, giải pháp triển khai các nhiệm vụ trong Chương trình, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận đã có Quyết định số 2443/QĐ-UBND ngày 25/12/2017 ban hành Đề án Đề cao trách nhiệm và từng bước hình thành thói quen chủ động, học tập, tự giác tuân thủ, chấp hành pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận.
Căn cứ vào nhu cầu, điều kiện thực tế, nhiều địa phương trên cả nước đã rà soát, củng cố, kiện toàn Ban Chỉ đạo, Tổ thư ký để theo dõi, điều phối hoạt động chung của Chương trình và các đề án tại địa phương (An Giang, Bắc Kạn, Cà Mau, Lai Châu, Quảng Bình); một số địa phương thành lập Ban Chỉ đạo, Tổ thư ký để điều hành riêng từng đề án (Bình Thuận, Hải Phòng, Phú Thọ).
Năm 2017 là năm đầu tiên tổ chức, triển khai thực hiện Chương trình nên các bộ, ngành, địa phương tập trung vào nhiệm vụ xây dựng, ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Chương trình, các đề án thuộc Chương trình giai đoạn 2017 - 2021; phân công, giao trách nhiệm thực hiện các nhiệm vụ cụ thể cho cơ quan, đơn vị chuyên môn trong tham mưu thực hiện các nhiệm vụ, các đề án thuộc Chương trình; rà soát, củng cố Ban Chỉ đạo, Tổ thư ký thực hiện Chương trình, các đề án thuộc Chương trình. Trên thực tế, một số bộ, ngành, địa phương cũng đã chủ động bố trí nguồn lực tổ chức thực hiện một số nhiệm vụ thuộc Chương trình và các đề án phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và phạm vi quản lý.
2. Một số kết quả bước đầu đạt được sau khi triển khai Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2017 - 2021 và các đề án phổ biến, giáo dục pháp luật
Thứ nhất, nhận thức của cấp ủy, chính quyền, đoàn thể về vị trí, vai trò của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và trách nhiệm trong triển khai thực hiện Chương trình và các đề án có chuyển biến tích cực, ngày càng sâu sắc, toàn diện và đầy đủ hơn
Qua việc theo dõi thực hiện Chương trình và các đề án cho thấy, các bộ, ngành, địa phương đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, ban hành các văn bản hướng dẫn triển khai thực hiện; kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ; tiếp tục quan tâm khai thác, sử dụng đội ngũ báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền viên pháp luật; bố trí nguồn lực để triển khai thực hiện Chương trình và các đề án để phát huy đầy đủ hiệu quả trong thực tế. Các đề án, kế hoạch tiếp tục triển khai thực hiện đề án cả giai đoạn được ban hành tại một số bộ, ngành, địa phương bước đầu đã có sự tham gia thẩm định, góp ý của cơ quan tư pháp các cấp để tránh trùng lắp, lãng phí nguồn lực.
Thứ hai, chất lượng, hiệu quả công tác phối hợp trong triển khai thực hiện Chương trình, các đề án về phổ biến, giáo dục pháp luật nói riêng, về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung được quan tâm, đẩy mạnh
Xác định công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung và triển khai các nhiệm vụ của Chương trình, các đề án về phổ biến, giáo dục pháp luật nói riêng có liên quan tới nhiều cấp, nhiều ngành, vì vậy, nhiều bộ, ban, ngành ở trung ương và địa phương đã xây dựng các chương trình, kế hoạch và phương thức phối hợp hoạt động cụ thể; đã quan tâm thực hiện việc lồng ghép với các Chương trình, đề án khác và giữa các Đề án phổ biến, giáo dục pháp luật tại cùng địa bàn, đối tượng, lĩnh vực. Qua đó, việc triển khai Chương trình và các đề án được thực hiện đồng bộ, thống nhất từ Trung ương tới cơ sở, tạo hiệu ứng tích cực. Đồng thời, phát huy triệt để, hiệu quả vai trò tư vấn, định hướng của Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật trong việc xây dựng kế hoạch, triển khai các nhiệm vụ, giải pháp của Chương trình.
Thứ ba, chủ động đổi mới nội dung, hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật theo hướng thiết thực, phù hợp với nhu cầu của từng nhóm đối tượng, địa bàn, lĩnh vực và phạm vi hoạt động của cơ quan, đơn vị
Thực hiện Chương trình và các đề án, các bộ, ngành, đoàn thể, địa phương đã chủ động đổi mới nội dung, hình thức và biện pháp phổ biến, giáo dục pháp luật bám sát yêu cầu nhiệm vụ và nhu cầu xã hội. Các hình thức tuyên truyền, phổ biến có hiệu quả đã được thực tiễn kiểm nghiệm tính đúng đắn được tăng cường hơn, đồng thời, mạnh dạn loại bỏ các hình thức không hiệu quả hoặc không còn phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Các cơ quan, đơn vị đã chú trọng tổ chức khảo sát, nắm bắt nhu cầu thông tin về pháp luật, chủ động lựa chọn nội dung, hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp với đặc thù đối tượng, địa bàn, lĩnh vực để có kế hoạch triển khai cụ thể. Một số địa phương triển khai các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật gắn với các lĩnh vực, vấn đề mà dư luận quan tâm. Thực tế triển khai Chương trình cho thấy, các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật truyền thống tiếp tục được lựa chọn và ngày càng phát huy hiệu quả như tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các hội nghị, hội thảo, qua phương tiện thông tin đại chúng, truyền thanh cơ sở (cổng thông tin điện tử, báo, tạp chí, loa truyền thanh cơ sở); tổ, mô hình điểm, câu lạc bộ pháp luật, đội nòng cốt; tổ chức thi tìm hiểu pháp luật; biên soạn tài liệu; hoạt động hòa giải ở cơ sở; tư vấn pháp luật; trợ giúp pháp lý; qua khai thác tủ sách pháp luật; phiên tòa lưu động, hưởng ứng Ngày Pháp luật...
Việc ứng dụng công nghệ thông tin, kỹ thuật số trong thực hiện các hoạt động của Chương trình và các đề án được xác định là nhiệm vụ, giải pháp đột phá, trọng tâm nên đã được các bộ, ngành, đoàn thể trung ương và các địa phương tập trung quan tâm, chú trọng, mang lại hiệu quả tích cực[5].
Thứ tư, hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật tiếp tục được hướng mạnh về cơ sở, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho các đối tượng đặc thù được quan tâm, chú trọng hơn
Thực hiện Chương trình, các bộ, ngành, đoàn thể, địa phương đã đẩy mạnh triển khai các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật tại địa bàn cơ sở có trọng tâm, trọng điểm, gắn với triển khai các đề án của Chương trình. Đến nay, cơ bản các đề án được tiếp tục thực hiện theo Chương trình đã được các địa phương cụ thể hóa thành kế hoạch triển khai tại địa phương mình, phù hợp với đối tượng, địa bàn, lĩnh vực cũng như yêu cầu, điều kiện, tình hình thực tiễn và việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương mình, ưu tiên tập trung nguồn lực để thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật.
Thứ năm, hoạt động xã hội hóa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tiếp tục được quan tâm, triển khai thực hiện
Thông qua việc thực hiện các hoạt động, nhiệm vụ của Chương trình và các đề án của Chương trình, các bộ, ngành, đoàn thể, địa phương đã chú trọng triển khai các hoạt động xã hội hóa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nhất là phát huy vai trò, sự tham gia của Hội Luật gia các cấp, các Đoàn Luật sư, các hiệp hội nghề luật, các tổ chức đoàn thể xã hội (Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân...), sự hỗ trợ của các doanh nghiệp trên địa bàn, một số địa phương đã coi đây là một nhiệm vụ đặt ra cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật để thực hiện có kết quả.
Thứ sáu, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường được đẩy mạnh, góp phần xây dựng và hình thành văn hóa pháp lý cho thế hệ trẻ
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường, trong cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, lực lượng vũ trang nhân dân tiếp tục được quan tâm triển khai phù hợp với từng cấp học, bậc học và trình độ đào tạo thông qua việc tăng cường hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, từng bước chuẩn hóa đội ngũ giáo viên dạy môn giáo dục công dân, giảng viên dạy môn pháp luật; chú trọng đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật phù hợp với từng nhóm đối tượng và mục tiêu giáo dục, đào tạo; tăng cường các hình thức sinh hoạt ngoại khóa, tìm hiểu pháp luật phù hợp cho học sinh, sinh viên…
Có thể khẳng định, việc triển khai Chương trình và các đề án của Chương trình đã tác động tích cực tới công tác quản lý nhà nước về phổ biến, giáo dục pháp luật. Chương trình và các đề án đã tạo cơ sở pháp lý và nguồn lực góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về phổ biến, giáo dục pháp luật. Các cấp ủy, tổ chức Đảng, lãnh đạo bộ, ngành, đoàn thể và địa phương đã quan tâm đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo; nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phối hợp; chú trọng xây dựng, củng cố, kiện toàn đội ngũ cán bộ hướng đến chuyên nghiệp, nâng cao hiệu quả hoạt động, kỹ năng, nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật thuần thục hơn; đổi mới các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật theo hướng phong phú, đa dạng và thiết thực, phù hợp với đặc điểm, nhu cầu của cơ quan, đơn vị; phổ biến, giáo dục pháp luật được hướng về cơ sở, nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tại các cơ sở giáo dục. Qua thực hiện Chương trình, đề án đã phổ biến kịp thời các quy định pháp luật gắn với thực hiện các nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng và đời sống sinh hoạt, học tập của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, chiến sĩ, học sinh, sinh viên và nhân dân, tạo điều kiện để cán bộ và nhân dân sử dụng pháp luật làm phương tiện, công cụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
3. Một số hạn chế, tồn tại trong quá trình triển khai Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2017 - 2021
Mặc dù Chương trình, các đề án thuộc Chương trình trong quá trình xây dựng đã kế thừa kinh nghiệm, kết quả tích cực, khắc phục triệt để những tồn tại, hạn chế qua thực tiễn triển khai chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn trước, tuy nhiên, cũng cần thẳng thắn nhìn nhận, việc triển khai thực hiện Chương trình, các đề án của Chương trình cũng bộc lộ một số tồn tại nhất định. Trong hướng dẫn, chỉ đạo, một số bộ, ngành ở trung ương vẫn chưa chủ động ban hành hoặc lồng ghép triển khai thực hiện Chương trình, các đề án của Chương trình trong quá trình tổ chức, thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật hàng năm. Một số đề án, kế hoạch triển khai đề án còn chậm ban hành so với tiến độ đề ra. Cách thức, cơ chế triển khai thực hiện còn hạn chế, việc xác định mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp triển khai thực hiện Chương trình, đề án chưa sát với công tác quản lý nhà nước, chưa tính đến đặc thù của từng ngành, lĩnh vực, địa phương. Tư duy triển khai chậm đổi mới, chưa bắt kịp với nhu cầu của thực tiễn, nhất là thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; chưa linh hoạt, sáng tạo khi thực hiện bước chuyển từ tư duy phổ biến quy định pháp luật thực định sang phổ biến, giáo dục định hướng chính sách pháp luật, tư tưởng chính trị pháp lý gắn với giáo dục đạo đức, văn hóa, các chuẩn mực xã hội để hình thành thái độ, tình cảm, niềm tin pháp luật, văn hóa pháp luật cho mỗi cá nhân công dân.
Trong việc triển khai Chương trình, các đề án vẫn còn tư duy lợi ích cục bộ theo ngành, lĩnh vực mà chưa tính đến công tác phối kết hợp để tránh chồng chéo, trùng lắp nguồn lực đầu tư của Nhà nước tại cùng địa bàn, lĩnh vực, đối tượng, nhất là vai trò điều phối của Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật và cơ quan thường trực Hội đồng, dẫn đến trùng lắp đối tượng, mục tiêu, nội dung hoạt động. Đối với một số đề án ở trung ương, việc tiếp thu ý kiến thẩm định nội dung của Bộ Tư pháp về đề án, kế hoạch thực hiện đề án còn hạn chế, mang tính hình thức. Ở địa phương, theo quy định tại Quyết định số 705/QĐ-TTg, Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp được giao trách nhiệm là cơ quan chủ trì, tham mưu giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp hướng dẫn, chỉ đạo, điều phối các hoạt động và kinh phí thực hiện Chương trình, các đề án về phổ biến, giáo dục pháp luật tại địa phương nhưng vai trò này chưa thực sự phát huy hiệu quả trên thực tiễn, hoặc có nơi đã không coi trọng vai trò của cơ quan này theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ để đảm bảo việc triển khai Chương trình, các đề án về phổ biến, giáo dục pháp luật được thống nhất, khả thi, hiệu quả thiết thực tại địa phương.
4. Kiến nghị, đề xuất
Một là, các bộ, ngành, đoàn thể, địa phương bám sát các quan điểm, mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ và giải pháp để cụ thể hóa; triển khai thực hiện phù hợp với điều kiện thực tiễn, khả năng cân đối nguồn lực; phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm được giao; định rõ mục tiêu, nhiệm vụ và phân công rõ trách nhiệm của từng cơ quan, tổ chức trong thực hiện; nâng cao hiệu quả công tác phối hợp; chú trọng lồng ghép trong triển khai thực hiện để bảo đảm có trọng tâm, trọng điểm, không trùng lắp; khai thác, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn lực đầu tư; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin.
Hai là, các bộ, ngành, đoàn thể, địa phương cần thường xuyên theo dõi, đánh giá kết quả, xây dựng và nhân rộng các mô hình hay, cách làm hiệu quả; kịp thời phát hiện vướng mắc, bất cập và đề ra giải pháp tháo gỡ. Đối với những sản phẩm của Chương trình, đề án có thể dùng chung thì tổng hợp, cùng chia sẻ; nhân rộng kết quả của Chương trình, đề án tại những địa phương có điều kiện đầu tư nguồn lực ra những địa bàn khác chưa có điều kiện để đầu tư nguồn lực.
Ba là, về lâu dài, Bộ Tư pháp cần nghiên cứu, xây dựng, hướng dẫn thực hiện các tiêu chí đánh giá hiệu quả việc triển khai thực hiện Chương trình, đề án về phổ biến, giáo dục pháp luật; phát huy các giá trị ổn định, bền vững, sức lan tỏa từ các kết quả, hoạt động của Chương trình, các đề án về phổ biến, giáo dục pháp luật sau khi kết thúc. Tăng cường hoạt động phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, đoàn thể, địa phương đánh giá, tổng kết việc thực hiện Chương trình, đề án về phổ biến, giáo dục pháp luật để nhân rộng, lan tỏa các kết quả, bài học có hiệu quả, tác động tích cực; đề xuất tiếp tục kéo dài việc thực hiện đối với những đề án phổ biến, giáo dục pháp luật thiết thực, đáp ứng yêu cầu của công tác này; đề xuất kết thúc các đề án không hiệu quả hoặc không thể triển khai được do thiếu nguồn lực; kiên quyết không đề xuất ban hành đề án mới thiếu tính khả thi, trùng lắp, không cân đối được nguồn lực thực hiện.
Bốn là, phát huy đầy đủ vai trò, đề cao trách nhiệm của Bộ Tư pháp, tổ chức làm công tác pháp chế, cơ quan tư pháp cấp tỉnh, cấp huyện trong xây dựng, thẩm định, trình ban hành và tổ chức triển khai thực hiện các đề án, kế hoạch về phổ biến, giáo dục pháp luật; phát huy vai trò của Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật trong tư vấn, tham mưu lựa chọn chủ đề, nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật trọng tâm, trọng điểm và điều phối các hoạt động; ưu tiên đầu tư nguồn lực cho những nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, tập trung vào tháo gỡ những điểm nghẽn lớn, những vướng mắc, bất cập đã được phát hiện mà nếu không xử lý ngay sẽ cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội, ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Năm là, các bộ, ngành, đoàn thể, địa phương khi xây dựng, triển khai thực hiện Chương trình, đề án, kế hoạch về phổ biến, giáo dục pháp luật của bộ, ngành, đoàn thể, địa phương mình cần bám sát điều kiện thực tiễn; tính toán kỹ các nguồn lực và điều kiện bảo đảm để xác định mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp cho phù hợp; ưu tiên lồng ghép, kết hợp giữa triển khai thực hiện nhiệm vụ phổ biến, giáo dục pháp luật với các nhiệm vụ chính trị, chuyên môn; gắn với thực hiện các chương trình, đề án phát triển kinh tế - xã hội, với các dự án hợp tác quốc tế… để tận dụng, khai thác, sử dụng hiệu quả tối đa nguồn lực; tiếp tục khuyến khích, huy động các nguồn lực xã hội tham gia thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật theo chủ trương xã hội hóa; kịp thời phát hiện vướng mắc, bất cập trong thực hiện để kịp thời tháo gỡ, xử lý.
Sáu là, tiếp tục quan tâm, ưu tiên, bố trí nguồn lực (nhân lực, kinh phí) để tập trung thực hiện Chương trình, đề án; bảo đảm kinh phí triển khai thực hiện Chương trình, các đề án về phổ biến, giáo dục pháp luật theo Quyết định số 705/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật, Bộ Tư pháp
[1]. Chương trình đã bảo đảm tính khả thi, kế thừa, phát triển các kết quả tích cực từ việc thực hiện các Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật từ trước đó (theo Quyết định số 409/QĐ-TTg ngày 09/4/2012 của Thủ tướng Chính phủ), có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với từng đối tượng, địa bàn, lĩnh vực, hướng về cơ sở, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị và nhu cầu xã hội để tạo đồng thuận trong thực hiện.
[2]. Xem: Quyết định số 1163/QĐ-BTP ngày 24/7/2017 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch thực hiện Chương trình, Công văn số 2588/BTP-PBGDPL của Bộ Tư pháp ngày 25/7/2017 hướng dẫn triển khai Quyết định số 705/QĐ - TTg ban hành Chương trình.
[3]. Quyết định ban hành Chương trình giai đoạn 2017-2021; Quyết định ban hành Kế hoạch triển khai Chương trình giai đoạn 2017 - 2021; Kế hoạch triển khai thực hiện Chương trình giai đoạn 2017 - 2021 (Bộ Công an; Bộ Quốc phòng; Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Giao thông - Vận tải; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Bộ Thông tin và Truyền thông; Hội Luật gia Việt Nam; Tòa án nhân dân tối cao; Tập đoàn Điện lực Việt Nam).
[4]. Như: Đề án “Củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đáp ứng yêu cầu đổi mới và phát triển đất nước”; Đề án “Tiếp tục tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo ở xã, phường, thị trấn” năm 2017 (Tiền Giang); chủ động xây dựng Kế hoạch thực hiện Đề án “Tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho thanh, thiếu niên” trước khi Đề án này được Thủ tướng Chính phủ cho phép tiếp tục triển khai thực hiện đến năm 2020 (Nghệ An, Bình Định, Hà Nội).
[5]. Như: Nâng cấp các cổng/trang thông tin điện tử để tăng cường đăng tải tin, bài văn bản pháp luật; thi tìm hiểu pháp luật, tổ chức giao lưu trực tuyến, triển khai các văn bản mới ban hành dưới dạng hội nghị trực tuyến qua mạng internet; tuyên truyền, phổ biến qua mạng internet, cập nhật, đăng tải các quy định pháp luật mới; giải đáp pháp luật qua hộp thư điện tử, thông qua các ứng dụng mạng xã hội như facebook; đầu tư, trang bị các thiết bị kỹ thuật chuyên dụng để ghi hình, biên tập thành các băng, đĩa phổ biến, giáo dục pháp luật, sử dụng các phần mềm tin học để thiết kế các sản phẩm phổ biến, giáo dục pháp luật.