Thứ bảy 25/10/2025 22:01
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Vấn đề áp dụng pháp luật nước ngoài trong tư pháp quốc tế của Việt Nam và một số quốc gia

Cùng với quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng rất nhiều quan hệ có yếu tố nước ngoài phát sinh như quan hệ dân sự, lao động, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại có yếu tố nước ngoài.

Cùng với quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng rất nhiều quan hệ có yếu tố nước ngoài phát sinh như quan hệ dân sự, lao động, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại có yếu tố nước ngoài. Khi các bên chủ thể hoặc cơ quan nhà nước áp dụng pháp luật nước ngoài sẽ phải tuân thủ những nội dung nhất định. Bài viết trình bày khái quát và thực tiễn áp dụng pháp luật nước ngoài trong tư pháp quốc tế của Việt Nam và một số quốc gia, từ đó đề xuất một số khuyến nghị trong việc quy định và áp dụng pháp luật nước ngoài ở Việt Nam.

1. Khái quát về quy định áp dụng pháp luật nước ngoài trong tư pháp quốc tế

Xuất phát từ nguyên tắc chủ quyền quốc gia, các quan hệ pháp luật sẽ chịu sự điều chỉnh của các quy phạm pháp luật quốc gia. Nhưng cùng với sự phát triển của hội nhập quốc tế, nhiều quan hệ có yếu tố nước ngoài xoay quanh các cá nhân, tổ chức được thiết lập như quan hệ hôn nhân và gia đình, quan hệ lao động, quan hệ kinh doanh thương mại và quan hệ dân sự... Lúc này, các cơ quan có thẩm quyền của một quốc gia sẽ xem xét áp dụng pháp luật để giải quyết cho các quan hệ đó. Thông thường, cơ quan có thẩm quyền của quốc gia sẽ xem xét các quy phạm xung đột trong pháp luật nước mình hoặc sự lựa chọn của các bên để từ đó áp dụng pháp luật nước ngoài giải quyết vụ việc. Khi áp dụng pháp luật nước ngoài, cơ quan có thẩm quyền phải tuân thủ các điều kiện, cơ sở và thể thức pháp lý nhất định. Mỗi quốc gia sẽ có các điều kiện, cơ sở và thể thức pháp lý về áp dụng luật nước ngoài khác nhau. Tuy nhiên, phạm vi cho phép áp dụng pháp luật nước ngoài phải được xác định trên cơ sở chủ quyền quốc gia và bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia; đồng thời, bảo đảm hiệu quả của việc áp dụng pháp luật nước ngoài không trái với những nguyên tắc cơ bản của chế độ xã hội và pháp luật của nước mình[1].

Áp dụng pháp luật nước ngoài là việc cơ quan có thẩm quyền của một quốc gia sẽ xem xét áp dụng quy định của pháp luật nước ngoài giải quyết cho quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, quan hệ tố tụng dân sự quốc tế.

Ở Việt Nam, các quy định của tư pháp quốc tế được thể hiện ở nhiều văn bản như: Bộ luật Dân sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Bộ luật Hàng hải năm 2015, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Luật Thương mại năm 2005, Bộ luật Lao động năm 2019… Quy định áp dụng pháp luật nước ngoài nằm trong văn bản chung nhất là Bộ luật Dân sự năm 2015 tại các điều 664, 667, 669 và 670. Cụ thể, pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được xác định theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc luật Việt Nam. Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc luật Việt Nam có quy định các bên có quyền lựa chọn thì pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được xác định theo lựa chọn của các bên. Trường hợp không xác định được pháp luật áp dụng theo quy định trên thì pháp luật áp dụng là pháp luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài đó.

Trường hợp pháp luật nước ngoài được áp dụng nhưng có cách hiểu khác nhau thì việc áp dụng phải theo sự giải thích của cơ quan có thẩm quyền tại nước đó. Trường hợp pháp luật của nước có nhiều hệ thống pháp luật được dẫn chiếu đến thì pháp luật áp dụng được xác định theo nguyên tắc do pháp luật nước đó quy định. Pháp luật nước ngoài được dẫn chiếu đến không được áp dụng trong trường hợp: Hậu quả của việc áp dụng pháp luật nước ngoài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam; nội dung của pháp luật nước ngoài không xác định được mặc dù đã áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật tố tụng. Trường hợp pháp luật nước ngoài không được áp dụng theo quy định thì pháp luật Việt Nam được áp dụng.

Như vậy, việc áp dụng pháp luật nước ngoài ở Việt Nam được chia thành 03 trường hợp: (i) Khi có các quy phạm xung đột trong điều ước quốc tế quy định; (ii) Khi quy phạm xung đột trong pháp luật quốc gia quy định áp dụng pháp luật nước ngoài; (iii) Khi các bên trong quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài thỏa thuận lựa chọn áp dụng pháp luật nước ngoài và đáp ứng điều kiện.

Tham khảo pháp luật của các quốc gia khác thấy rằng, Trung Quốc là quốc gia đã ban hành đạo luật chuyên biệt về tư pháp quốc tế, đó là Luật Áp dụng cho quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được thông qua vào ngày 28/10/2010, có hiệu lực kể từ ngày 01/4/2011. Theo đó, Luật này quy định: Các bên có thể chọn luật áp dụng cho quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài theo quy định của luật này (Điều 3). Trường hợp việc áp dụng pháp luật nước ngoài gây phương hại đến xã hội và lợi ích công cộng của pháp luật Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, pháp luật Cộng hòa nhân dân Trung Hoa sẽ được áp dụng (Điều 5). Trong trường hợp pháp luật nước ngoài được áp dụng cho mối quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài và luật khác được thực hiện ở các khu vực khác nhau của quốc gia đó thì luật của nước có mối liên hệ chặt chẽ nhất với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài sẽ được áp dụng (Điều 6). Bên cạnh đó, việc áp dụng pháp luật nước ngoài cho quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài không bao gồm các quy tắc xung đột của quốc gia đó (Điều 9) và pháp luật nước ngoài áp dụng cho quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài sẽ được xác định bởi tòa án nhân dân có liên quan, trọng tài hoặc cơ quan hành chính. Trường hợp các bên đã chọn một pháp luật nước ngoài để áp dụng thì các bên sẽ cung cấp pháp luật của nước đó. Trường hợp pháp luật nước ngoài không thể được xác định hoặc pháp luật của quốc gia đó không có điều khoản liên quan thì pháp luật Cộng hòa nhân dân Trung Hoa sẽ được áp dụng (Điều 10).

2. Thực tiễn áp dụng pháp luật nước ngoài trong tư pháp quốc tế ở một số quốc gia

Trong thực tiễn, có rất ít trường hợp Tòa án Trung Quốc áp dụng pháp luật nước ngoài vì đa số đều bị dựa vào đoạn 2 Điều 10 Luật Áp dụng cho quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Đơn cử như những trường hợp sau đây[2]:

Trường hợp 1: Tranh chấp giữa Haicheng Bangda International Logistics Co., Ltd. và Appellee Yantai Zhonglian Industrial Co., Ltd trong hợp đồng vận tải hàng hóa hàng hải. Các bên đã thể hiện trong vận đơn đồng ý áp dụng pháp luật Hoa Kỳ. Về vấn đề này, tòa sơ thẩm tuyên bố rằng, mặc dù bị đơn ủng hộ việc áp dụng luật của Hoa Kỳ, nhưng bị đơn đã không tuân thủ luật pháp Hoa Kỳ và không nêu rõ luật nào của Hoa Kỳ nên được áp dụng. Tòa án phúc thẩm cũng cho rằng, mặc dù bị đơn trong phiên sơ thẩm ủng hộ việc áp dụng luật của Hoa Kỳ, nhưng không cung cấp các quy định của luật pháp Hoa Kỳ cho đến khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm, do đó các quy định của luật pháp Hoa Kỳ không thể được xác định.

Trường hợp 2: Trong trường hợp tranh chấp hợp đồng lao động giữa Long Zhongyong, Yongya Enterprise và Banghu Shipping Co., Ltd. Tòa sơ thẩm xác định rằng, mặc dù hợp đồng quy định rằng luật Singapore được áp dụng, bị đơn không xuất hiện tại tòa để tham gia vụ kiện. Nguyên đơn yêu cầu áp dụng luật pháp Trung Quốc, vì vậy luật pháp Trung Quốc nên được áp dụng để giải quyết các tranh chấp thực chất.

Trường hợp 3: Trong trường hợp vụ việc Zhejiang Shao Shangwai Chuzi số 76 năm 2010. Tòa án tuyên bố: Các bên đồng ý áp dụng luật của Bang New York, Hoa Kỳ và các bên nên cung cấp luật có liên quan. Hiện tại, nguyên đơn và bị đơn chưa cung cấp cho Tòa án này các luật nước ngoài đã thỏa thuận, luật Trung Quốc nên áp dụng cho trường hợp này.

Như vậy, đây là các trường hợp điển hình của việc pháp luật nước ngoài không thể xác định được để từ đó tòa án sẽ áp dụng pháp luật của Trung Quốc. Tháng 5/2015, Trung Quốc đã thành lập các trung tâm nghiên cứu về pháp luật nước ngoài như Trung tâm nghiên cứu chứng nhận luật nước ngoài do Tòa án nhân dân tối cao cùng với Đại học Khoa học chính trị và luật thành lập. Các trung tâm này sẽ đóng vai trò hỗ trợ trong việc cung cấp pháp luật nước ngoài, chứng nhận nội dung pháp luật nước ngoài.

Tương tự như Trung Quốc, ở Philippines, nếu luật pháp nước ngoài không được chứng minh thì các Tòa án Philippines sẽ áp dụng pháp luật của Philippines và cho rằng luật pháp nước ngoài tương tự như luật pháp của Philippines theo học thuyết giả định. Các quy tắc lựa chọn luật luôn bao gồm một mối quan hệ thực tế (chẳng hạn như quyền tài sản, yêu cầu hợp đồng) và một sự kiện hoặc địa điểm, chẳng hạn như nơi cử hành, nơi biểu diễn hoặc nơi xảy ra sai phạm.

Ở Hoa Kỳ, Tòa án không bắt buộc phải áp dụng pháp luật nước ngoài khi đương sự không khởi xướng (nêu ra). Thông báo việc khởi xướng áp dụng pháp luật nước ngoài cho bên đối tụng là nghĩa vụ bắt buộc. Nếu đương sự khởi xướng vi phạm nghĩa vụ này, vụ việc sẽ được giải quyết bởi luật quốc nội. Trong trường hợp không bên đương sự nào khởi xướng áp dụng pháp luật nước ngoài, Tòa án suy đoán rằng các bên từ bỏ quyền yêu cầu áp dụng pháp luật nước ngoài. Như vậy, đương nhiên luật nơi xét xử được áp dụng. Trong vụ Clarkson Co. v. Shaheen, 660 F.2d 506, 512 n.4 (2d Cir. 1981), Tòa án áp dụng luật của bang New York vì không đương sự nào đặt vấn đề luật của Canada được áp dụng để giải quyết vụ việc. Nếu nội dung của pháp luật nước ngoài không được chứng minh, cũng giống như các Tòa án ở Anh, Tòa án ở Hoa Kỳ áp dụng nguyên tắc suy đoán các hệ thống pháp luật tương tự. Trong vụ Loebig v. Larucci 572 F.2d 81 (2d Cir. 1978), cả nguyên đơn và bị đơn đều là công dân Hoa Kỳ, nguyên đơn gặp tai nạn tại Đức khi đang là hành khách trên xe mô tô được sở hữu và vận hành bởi bị đơn. Mặc dù, trong trường hợp này Tòa án xác định luật áp dụng là luật Đức. Tuy nhiên, do cả hai bên không thể chứng minh được nội dung của pháp luật Đức nên thẩm phán đã hướng dẫn bồi thẩm đoàn áp dụng pháp luật của bang New York[3].

Trong thực tiễn xét xử ở Việt Nam, việc áp dụng pháp luật nước ngoài rất ít được Tòa án áp dụng. Tòa án ở Việt Nam sẽ tiến hành áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết hầu hết các tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài. Bên cạnh đó, các văn bản pháp luật quy định mới chỉ dừng lại ở quy định chung, khung khuôn mẫu khi xác định các trường hợp không áp dụng pháp luật nước ngoài.

3. Một số khuyến nghị về việc áp dụng pháp luật nước ngoài trong tư pháp quốc tế ở Việt Nam

Để bảo đảm cho việc giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài một cách hợp lý, Việt Nam cần phải ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật điều chỉnh về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, trong đó có hướng dẫn quy định về việc áp dụng pháp luật nước ngoài, cụ thể:

Thứ nhất, bổ sung quy định về cách thức xác định, tìm kiếm pháp luật nước ngoài dựa vào các nguồn như: Do các bên cung cấp; được cung cấp bởi các tổ chức dịch vụ pháp lý; được cung cấp bởi cơ quan trung ương của bên ký kết khác đã tham gia điều ước quốc tế với Việt Nam; được cung cấp bởi Đại sứ quán hoặc Lãnh sự quán của Việt Nam tại các quốc gia liên quan; được cung cấp bởi Đại sứ quán của nước liên quan ở Việt Nam.

Thứ hai, bổ sung quy định hướng dẫn cụ thể về các trường hợp “trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” và “nội dung của pháp luật nước ngoài không xác định được mặc dù đã áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật tố tụng” tại Điều 670 Bộ luật Dân sự năm 2015. Ngoài ra, trong quá trình giải quyết vụ án tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài, Tòa án nên có sự giải thích về nội dung về việc không áp dụng pháp luật nước ngoài để đảm bảo tính hợp lý, công bằng, rõ ràng hơn nữa của bản án.

Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài có đặc trưng khác biệt với các quan hệ thông thường trong nước. Cho nên, pháp luật nước ngoài sẽ có thể được áp dụng đề điều chỉnh quan hệ đặc biệt này. Vì thế, việc quy định và thực tiễn áp dụng pháp luật nước ngoài cần được xem xét, bổ sung, đánh giá để việc áp dụng được hợp lý, đảm bảo quyền lợi của các bên chủ thể. Để làm được điều này, trong thời gian tới, cần ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 về pháp luật áp dụng điều chỉnh quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.

ThS. Phạm Thị Hồng Mỵ
Khoa Luật - Đại học Sài Gòn


[1] Bộ Tư pháp (2016), Áp dụng pháp luật nuớc ngoài tại Việt Nam - Những lợi ích và bất lợi của Việt Nam khi tham gia Công ước Viên năm 1980

[2] Đinh Xiaowei, Wang Jiwen (2016), Về vấn đề không cung cấp luật nước ngoài trong việc điều tra luật nước ngoài

[3] Đỗ Minh Tuấn (2014), Xác định nội dung pháp luật nước ngoài để giải quyết tranh chấp dân sự quốc tế bởi Tòa án, Tạp chí Kinh tế đối ngoại, số 70.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Bài viết về những thành tựu nổi bật và định hướng phát triển công tác hành chính tư pháp trong thời gian tới.
Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Tạp chí) là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, có chức năng thông tin về khoa học pháp lý, thông tin lý luận, nghiệp vụ và thực tiễn trong xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp của Bộ, ngành Tư pháp; tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước theo quy định pháp luật; đồng thời, là diễn đàn trao đổi học thuật, thực tiễn và chính sách trong lĩnh vực pháp luật[1].
Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Để bảo đảm cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2026-2031 được tiến hành dân chủ, đúng pháp luật và thống nhất trên phạm vi cả nước, Hội đồng bầu cử quốc gia (HĐBCQG) được thành lập, giữ vai trò tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH); chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND). Việc tìm hiểu cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của HĐBCQG có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và cử tri thực hiện quyền làm chủ của mình, đồng thời giúp cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan thực hiện tốt nhiệm vụ trong công tác bầu cử.
Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Bài viết phân tích một số thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới của Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp.
Trợ giúp pháp lý - Điểm tựa pháp lý cho tuổi vị thành niên lầm lỡ

Trợ giúp pháp lý - Điểm tựa pháp lý cho tuổi vị thành niên lầm lỡ

Lứa tuổi vị thành niên là giai đoạn các em đang hình thành nhân cách, dễ bồng bột, thiếu kỹ năng kiểm soát cảm xúc và nhận thức pháp luật còn hạn chế. Nếu không được định hướng, các em rất dễ sa vào những hành vi vi phạm pháp luật đáng tiếc. Chỉ một phút nóng giận, một quyết định bồng bột… cũng đủ khiến tuổi trẻ phải trả giá bằng cả những tháng ngày sau song sắt. Thế nhưng, trong câu chuyện buồn ấy, vẫn có một điểm sáng nhân văn - đó là bàn tay nâng đỡ của trợ giúp pháp lý miễn phí, để một thiếu niên lầm lỡ có cơ hội sửa sai và làm lại từ đầu.
Lịch trình pháp lý cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031

Lịch trình pháp lý cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031

Bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH) và đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND) là sự kiện chính trị trọng đại, được tiến hành theo trình tự chặt chẽ, bảo đảm dân chủ, bình đẳng và đúng pháp luật. Trong tiến trình ấy, Luật Bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND (Luật Bầu cử) quy định cụ thể các mốc thời gian thực hiện. Đây vừa là cơ sở bảo đảm tính logic, vừa là căn cứ cho sự minh bạch và thống nhất trong toàn bộ quy trình. Lịch trình pháp lý được xác định trên cơ sở ngày bầu cử đã được ấn định cho mỗi kỳ bầu cử.
Dấu mốc quan trọng tạo lập khung pháp lý cho thị trường tài sản mã hóa

Dấu mốc quan trọng tạo lập khung pháp lý cho thị trường tài sản mã hóa

Ngày 09/9/2025, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 05/2025/NQ-CP về việc triển khai thí điểm thị trường tài sản mã hóa tại Việt Nam. Nghị quyết được ban hành đánh dấu bước đi quan trọng tạo khung khổ pháp lý để quản lý, kiểm soát chặt chẽ, minh bạch hóa thị trường tài sản mã hóa, hướng tới định hình thị trường tài sản số.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Cần kịp thời hoàn thiện và tổ chức thực hiện hiệu quả chính sách pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Cần kịp thời hoàn thiện và tổ chức thực hiện hiệu quả chính sách pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc triển khai Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 22/01/2019 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và trách nhiệm quản lý của Nhà nước đối với công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng vẫn còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế nhất định, đòi hỏi phải kịp thời hoàn thiện chính sách pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
14 trường hợp được miễn học phí từ năm học 2025-2026

14 trường hợp được miễn học phí từ năm học 2025-2026

Đây là một trong những điểm mới đáng chú ý trong chính sách miễn, giảm, hỗ trợ học phí, hỗ trợ chi phí học tập của Chính phủ.
HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở HÀ TĨNH THÁCH THỨC VÀ YÊU CẦU ĐỔI MỚI TỪ THỰC TIỄN

HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở HÀ TĨNH THÁCH THỨC VÀ YÊU CẦU ĐỔI MỚI TỪ THỰC TIỄN

Trợ giúp pháp lý là chính sách nhân văn sâu sắc, thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đặc biệt là những người yếu thế trong xã hội, người có công với cách mạng. Đồng thời, đây cũng là công cụ quan trọng nhằm bảo đảm công lý, để mọi người dân đều được tiếp cận pháp luật bình đẳng, góp phần hiện thực hóa mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Giải pháp khắc phục vướng mắc trong sử dụng Phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch phục vụ vận hành chính quyền địa phương 02 cấp

Giải pháp khắc phục vướng mắc trong sử dụng Phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch phục vụ vận hành chính quyền địa phương 02 cấp

Ngày 15/8/2025, Bộ Tư pháp đã có Văn bản số 5006/BTP-HCTP về giải pháp khắc phục các khó khăn, vướng mắc trong sử dụng Phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch phục vụ vận hành chính quyền địa phương 02 cấp gửi Văn phòng Trung ương Đảng, trong đó, xác định rõ nguyên nhân và những giải pháp để kịp thời khắc phục các khó khăn, vướng mắc.
Thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, biện pháp đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, biện pháp đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Theo Pháp lệnh số 08/2025/UBTVQH15 được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 27/6/2025, kể từ ngày 01/7/2025, Tòa án nhân dân khu vực có thẩm quyền theo lãnh thổ tiếp nhận nhiệm vụ xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân, đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng mà Tòa án nhân dân cấp huyện đang giải quyết.
Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3, tỉnh Lào Cai quyết tâm bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người dân sau sáp nhập

Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3, tỉnh Lào Cai quyết tâm bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người dân sau sáp nhập

Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3, tỉnh Lào Cai được thành lập ngày 01/7/2025 trên cơ sở hợp nhất Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3 huyện Văn Bàn (cũ) và Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 4 huyện Bảo Yên (cũ). Từ khi được thành lập, Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3 thích ứng mô hình chính quyền địa phương hai cấp, bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người dân sau sáp nhập.
Xác định đối tượng trợ giúp pháp lý là người dân tộc thiểu số vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn khi triển khai chính quyền địa phương hai cấp

Xác định đối tượng trợ giúp pháp lý là người dân tộc thiểu số vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn khi triển khai chính quyền địa phương hai cấp

Sau khi thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy chính quyền địa phương hai cấp, việc xác định đối tượng trợ giúp pháp lý người dân tộc thiểu số vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn phát sinh một số bất cập cần có giải pháp tháo gỡ.
Trung tâm Trợ giúp pháp lý tỉnh Lào Cai tiếp tục nỗ lực, thực sự là điểm tựa pháp lý tin cậy cho người dân

Trung tâm Trợ giúp pháp lý tỉnh Lào Cai tiếp tục nỗ lực, thực sự là điểm tựa pháp lý tin cậy cho người dân

Trong bối cảnh Việt Nam đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, quyền tiếp cận công lý của công dân, đặc biệt là người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số và các nhóm yếu thế được xác định là một mục tiêu trọng tâm. Trợ giúp pháp lý là công cụ hữu hiệu, cầu nối đưa chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống, bảo đảm công bằng xã hội và củng cố niềm tin của Nhân dân.

Theo dõi chúng tôi trên:

he-thong-benh-vien-quoc-te-vinmec
delta-group
nha-hang-thai-village
trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
truong-dai-hoc-y-duoc-dai-hoc-quoc-gia-ha-noi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm
cong-ty-co-phan-loc-hoa-dau-binh-son
sofitel-legend-metropole-ha-noi