Chủ nhật 14/12/2025 04:30
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Vướng mắc về giải quyết tranh chấp kết quả bán đấu giá tài sản theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự

Tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự là một trong những tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Loại tranh chấp này trong thực tiễn không nhiều, nhưng việc giải quyết tranh chấp lại tương đối phức tạp và khó khăn. Nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ những bất cập trong quy định của pháp luật có liên quan.

1. Quyền yêu cầu hủy kết quả bán đấu giá tài sản

Luật Thi hành án dân sự năm 2008 quy định những người sau đây có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy kết quả bán đấu giá tài sản: Đương sự (bao gồm người được thi hành án, người phải thi hành án), chấp hành viên (khoản 1 Điều 102 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 quy định: “Đương sự, chấp hành viên có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản”). Tuy nhiên, khi Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy kết quả bán đấu giá tài sản là: Người mua được tài sản bán đấu giá và chấp hành viên (khoản 2 Điều 102 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014: “Người mua được tài sản bán đấu giá, chấp hành viên có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản, nếu có căn cứ chứng minh có vi phạm trong quá trình bán đấu giá tài sản”).

Như vậy, theo quy định hiện hành, ngoài chấp hành viên thì chỉ người mua được tài sản bán đấu giá mới có quyền yêu cầu Tòa án hủy kết quả bán đấu giá; còn người được thi hành án và người phải thi hành án không có quyền này. Từ những quy định này mà trong thực tiễn đã gặp phải vướng mắc đó là người phải thi hành án (là người bị chấp hành viên kê biên tài sản để bán đấu giá) có căn cứ cho rằng việc bán đấu giá không thực hiện đúng quy định pháp luật, làm ảnh hưởng nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của họ nhưng họ lại không có quyền yêu cầu Tòa án hủy kết quả bán đấu giá; trong khi người mua được tài sản và chấp hành viên là những người tham gia bán đấu giá thì không yêu cầu Tòa án hủy kết quả bán đấu giá tài sản. Cho nên đã dẫn đến việc người phải thi hành án khiếu nại nhiều nơi gây kéo dài thời gian thi hành án, cơ quan thi hành án thì không giao được tài sản cho người mua tài sản bán đấu giá dẫn đến người mua tài sản bán đấu giá khiếu nại cơ quan thi hành án dân sự và rất nhiều hệ lụy khác.

Ngoài ra, quy định chấp hành viên có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy kết quả bán đấu giá tài sản còn tạo ra nhiều cách hiểu khác nhau. Cụ thể là chấp hành viên nào mới có quyền yêu cầu: Chấp hành viên được phân công tổ chức thi hành quyết định thi hành án có liên quan đến tài sản bán đấu giá hay bất kỳ chấp hành viên nào. Thực tế chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể vấn đề này. Tuy nhiên, quan điểm được đồng thuận nhiều nhất là chấp hành viên được phân công tổ chức thi hành quyết định thi hành án có liên quan tài sản bán đấu giá vì họ là người được giao nhiệm vụ trực tiếp thực hiện việc bán đấu giá tài sản và chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động liên quan đến việc bán đấu giá tài sản.

2. Tòa án có thẩm quyền giải quyết

Thẩm quyền giải quyết vụ án thực hiện theo quy định tại Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ và theo quy định tại Điều 40 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn. Tuy nhiên, trong thực tiễn có một vấn đề vẫn còn quan điểm khác nhau. Chẳng hạn, việc nguyên đơn khởi kiện Trung tâm bán đấu giá tài sản (có trụ sở tại huyện A, tỉnh N) tại Tòa án nhân dân huyện B nơi tổ chức việc bán đấu giá tài sản và là nơi có tài sản bán đấu giá để yêu cầu hủy kết quả bán đấu giá tài sản có đúng quy định không. Vấn đề là, thẩm quyền thuộc Tòa án nhân dân huyện A nơi bị đơn là Trung tâm bán đấu giá tài sản có trụ sở (theo điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015: Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này) hay Tòa án nhân dân huyện B nơi hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá được thực hiện (theo điểm a khoản 1 Điều 40 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015: Nếu tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện giải quyết).

Quan điểm xác định Tòa án nhân dân huyện B có thẩm quyền giải quyết cho rằng, việc tranh chấp kết quả bán đấu giá tài sản xuất phát từ hợp đồng bán đấu giá giữa Chi cục Thi hành án dân sự huyện B với Trung tâm bán đấu giá tài sản và hợp đồng mua bán giữa Trung tâm bán đấu giá tài sản với người mua được tài sản bán đấu giá. Cho nên nguyên đơn có thể viện dẫn quy định tại điểm g khoản 1 Điều 40 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 để khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện B. Quan điểm xác định Tòa án nhân dân huyện A có thẩm quyền giải quyết thì cho rằng, nguyên đơn không tranh chấp hợp đồng với bị đơn mà đơn thuần là tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.

3. Xác định bị đơn

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định, bị đơn trong vụ án dân sự là người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc bị cơ quan, tổ chức, cá nhân khác do Bộ luật này quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm phạm (khoản 1 Điều 68). Tuy nhiên, trong thực tiễn có trường hợp khi tham gia tố tụng, bị đơn cho rằng mình không phải là bị đơn vì không có quyền, nghĩa vụ gì liên quan đến vụ án đối với nguyên đơn. Ví dụ: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy kết quả bán đấu giá do Trung tâm bán đấu giá tài sản tỉnh N thuộc Sở Tư pháp tỉnh N tổ chức vào năm 2016 và xác định trong đơn khởi kiện bị đơn là Sở Tư pháp tỉnh N vì là cơ quan kế thừa quyền, nghĩa vụ dân sự của Trung tâm bán đấu giá tài sản do tại thời điểm khởi kiện, Trung tâm bán đấu giá tài sản tỉnh N đã giải thể. Khi tham gia tố tụng, bị đơn cho rằng mình không phải là bị đơn vì việc bán đấu giá tài sản là do Trung tâm bán đấu giá thực hiện, nay Trung tâm bán đấu giá đã giải thể nên không còn liên quan gì đến Sở Tư pháp tỉnh N, nếu cho rằng Sở Tư pháp tỉnh N là cơ quan kế thừa quyền, nghĩa vụ dân sự của Trung tâm bán đấu giá tài sản thì phải chỉ ra căn cứ pháp lý.

Nghiên cứu quy định pháp luật thấy rằng, Trung tâm bán đấu giá tài sản (Tổ chức bán đấu giá tài sản) được thành lập theo quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, là đơn vị sự nghiệp công lập, có tư cách pháp nhân, có thu, có tài sản riêng và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình. Cho nên sau khi giải thể, các khoản phí mà cá nhân, cơ quan, tổ chức còn nợ Trung tâm bán đấu giá thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thường sẽ giao cho một cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chịu trách nhiệm thu và nộp vào ngân sách nhà nước; còn tài sản khác của Trung tâm bán đấu giá sẽ bàn giao cho cơ quan khác theo quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2005 và năm 2015 có quy định về việc giải thể pháp nhân. Tuy nhiên, pháp luật lại không quy định về việc kế thừa quyền, nghĩa vụ dân sự của pháp nhân là đơn vị hành chính sự nghiệp bị giải thể và không có quy định cụ thể cơ quan, tổ chức nào phải kề thừa trách nhiệm dân sự của pháp nhân là Trung tâm bán đấu già tài sản bị giải thể. Trong khi đó, khi giải quyết vụ án, Tòa án phải xác định ai là bị đơn trong vụ án và căn cứ pháp lý là gì, để từ đó xác định nghĩa vụ dân sự (nếu có) của họ đối với nguyên đơn và đương sự khác trong vụ án.

4. Thời hiệu khởi kiện

Khoản 2 Điều 184 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và khoản 2 Điều 140 Bộ luật Dân sự năm 2015 đều có chung quy định: Tòa án chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc. Thực tiễn là trong quá trình giải quyết tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản, đã có bị đơn yêu cầu Tòa án áp dụng thời hiệu đối với yêu cầu hủy kết quả bán đấu giá tài sản của nguyên đơn và đề nghị Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án vì thời hiệu khởi kiện đã hết. Vấn đề đặt ra là, tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản có áp dụng thời hiệu khởi kiện hay không? Nếu có thì thời hiệu khởi kiện là bao lâu.

Nghiên cứu quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì không có quy định cụ thể thời hiệu khởi kiện đối với tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản. Luật Bán đấu giá tài sản có hiệu lực từ ngày 01/7/2017 cũng không có quy định cụ thể về thời hiệu khởi kiện đối với tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản. Vì vậy, trong thực tiễn đã có hai quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng, đối với tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện vì pháp luật không có quy định. Quan điểm thứ hai cho rằng tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản là tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng, vì vậy, phải áp dụng quy định về thời hiệu khởi kiện đối với tranh chấp về hợp đồng để xem xét thời hiệu khởi kiện còn hay không. Theo quy định tại Điều 429 Bộ luật Dân sự năm 2015, thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Hơn nữa, Điều 155 Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng đã quy định rất rõ là thời hiệu khởi kiện không áp dụng trong trường hợp sau đây: (i) Yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản; (ii) Yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác; (iii) Tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai; (iv) Trường hợp khác do luật quy định.

Dương Tấn Thanh

Tòa án nhân dân thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bài viết nêu lên vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước và đề xuất một số giải pháp nâng cao vai trò của Bộ Tư pháp trong giai đoạn mới.
Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Trong quá trình phát triển của đất nước, đặc biệt, trong 10 năm gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế - xã hội Việt Nam, việc xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật là công tác đặc biệt quan trọng. Với sự nỗ lực không ngừng, Bộ Tư pháp đã cùng các bộ, ngành làm tốt công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống, góp phần quan trọng trong thực hiện thành công công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế, giữ vững chủ quyền quốc gia, an ninh, trật tự xã hội, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa, tinh thần của Nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội, xây dựng xã hội dân chủ, văn minh theo đường lối của Đảng và Nhà nước. Để đạt được những thành tựu đó, nhiều hoạt động đã được triển khai đồng bộ, từ công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL); đặc biệt, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực làm công tác xây dựng, thi hành pháp luật. Bộ Tư pháp đã chủ động, tích cực phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, trong đó có Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong công tác xây dựng thể chế, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác pháp chế.
Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Với chức năng là cơ quan của Chính phủ, thực hiện quản lý nhà nước về xây dựng và thi hành pháp luật, Bộ Tư pháp đã và đang đóng góp, góp phần quan trọng trong kiến tạo nền tảng pháp lý vững chắc, phục vụ mục tiêu phát triển đất nước; đồng thời, đóng vai trò chủ đạo trong xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ pháp luật, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và thúc đẩy tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những kết quả đạt được thể hiện qua các nội dung chính sau:
Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Ngày 01/01/2004, tỉnh Lai Châu chính thức được chia tách thành tỉnh Điện Biên và Lai Châu. Đây cũng là thời điểm Sở Tư pháp tỉnh Lai Châu (mới) được thành lập và đi vào hoạt động. Trải qua hơn 21 năm xây dựng và phát triển, ngành Tư pháp tỉnh Lai Châu đã vượt qua khó khăn, thử thách, ngày càng lớn mạnh và khẳng định được vai trò, vị thế của mình.
Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Trợ giúp pháp lý (TGPL) là một trong những chính sách xã hội có ý nghĩa nhân văn sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo đảm quyền được tiếp cận công lý bình đẳng của mọi tầng lớp Nhân dân, đặc biệt là nhóm những người yếu thế trong xã hội. Thông qua các hoạt động TGPL, người yếu thế trong xã hội được cung cấp, sử dụng dịch vụ pháp lý miễn phí khi có tranh chấp, góp phần nâng cao ý thức pháp luật và phòng ngừa vi phạm pháp luật. Trong hoạt động TGPL, đội ngũ luật sư đóng vai trò then chốt, là lực lượng trực tiếp thực hiện việc tư vấn, đại diện và bào chữa cho các đối tượng yếu thế. Tuy nhiên, thực tế cho thấy công tác TGPL còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, cả về cơ chế, nguồn lực và phương thức triển khai.
Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Việc tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong giảng dạy chương trình Trung cấp lý luận chính trị là yêu cầu tất yếu, góp phần trực tiếp vào việc xây dựng bản lĩnh chính trị, củng cố niềm tin và năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ đương chức và dự nguồn cấp cơ sở. Trên cơ sở thực tiễn công tác giảng dạy và yêu cầu đổi mới giáo dục lý luận chính trị, cần đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị (Học phần) tại Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ.
Thực tiễn thi hành Luật Tương trợ tư pháp phần về dân sự

Thực tiễn thi hành Luật Tương trợ tư pháp phần về dân sự

Sau hơn 17 năm thi hành, Luật Tương trợ tư pháp năm 2007, thực tiễn đời sống xã hội đang đặt ra nhiều yêu cầu mới đối với hoạt động TTTP về dân sự. Do đó, việc tổng kết thực tiễn thực hiện Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 là cần thiết, từ đó, đánh giá những điểm còn hạn chế so với yêu cầu thực tiễn, làm cơ sở đề xuất hoàn thiện pháp luật TTTP về dân sự trong bối cảnh mới.
Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Trường Cao đẳng Luật miền Bắc được nâng cấp từ Trường Trung cấp Luật Thái Nguyên theo Quyết định số 869/QĐ-LĐTBXH ngày 10/7/2020 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (nay là Bộ Nội vụ), đã kế thừa hơn một thập kỷ kinh nghiệm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ pháp lý cấp cơ sở, đặc biệt, tại khu vực trung du và miền núi phía Bắc.
Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Bộ Tư pháp đã trang bị, bổ sung, ứng dụng các công nghệ mới như máy chủ ảo hóa, lưu trữ SAN; máy chủ ứng dụng, máy chủ cơ sở dữ liệu cho Trung tâm dữ liệu điện tử để đáp ứng yêu cầu quản lý, vận hành và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp.
Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Bài viết về những thành tựu nổi bật và định hướng phát triển công tác hành chính tư pháp trong thời gian tới.
Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Tạp chí) là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, có chức năng thông tin về khoa học pháp lý, thông tin lý luận, nghiệp vụ và thực tiễn trong xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp của Bộ, ngành Tư pháp; tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước theo quy định pháp luật; đồng thời, là diễn đàn trao đổi học thuật, thực tiễn và chính sách trong lĩnh vực pháp luật[1].
Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, thực hiện chức năng thông tin về các hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp và các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội trong nước và quốc tế; truyền thông, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hoạt động xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp phục vụ yêu cầu quản lý của Bộ Tư pháp, đáp ứng nhu cầu của xã hội về thông tin, nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật, phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tham gia định hướng tư tưởng, phản biện xã hội, khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết và tự lực, tự cường của Nhân dân, đồng hành với an sinh xã hội.
Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Để bảo đảm cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2026-2031 được tiến hành dân chủ, đúng pháp luật và thống nhất trên phạm vi cả nước, Hội đồng bầu cử quốc gia (HĐBCQG) được thành lập, giữ vai trò tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH); chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND). Việc tìm hiểu cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của HĐBCQG có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và cử tri thực hiện quyền làm chủ của mình, đồng thời giúp cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan thực hiện tốt nhiệm vụ trong công tác bầu cử.
Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Bài viết phân tích một số thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới của Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp.
Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ, ngành Tư pháp - Thành tựu đạt được và những yêu cầu trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ, ngành Tư pháp - Thành tựu đạt được và những yêu cầu trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Trong những năm qua, hoạt động nghiên cứu khoa học của Bộ Tư pháp đã khẳng định được vai trò cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn, giúp Lãnh đạo Bộ tham mưu với các cấp có thẩm quyền xây dựng các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác pháp luật, tư pháp, về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Theo dõi chúng tôi trên: