Thứ bảy 21/06/2025 12:34
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Bàn về quyền lịch sử và phán quyết của Tòa trọng tài trong vụ kiện ở Biển Đông

Ngày 12/07/2016, Tòa trọng tài được thành lập theo Phụ lục VII, Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển UNCLOS năm 1982 (sau đây gọi là Công ước) đã ban hành phán quyết cuối cùng đối với vụ kiện giữa Cộng hoà Philippines và Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa (sau đây gọi là Philippines và Trung Quốc) đối với các tranh chấp ở Biển Đông[1].


Một trong những nội dung quan trọng nhất trong phán quyết của Tòa là đã bác bỏ yêu sách quyền lịch sử trong khu vực “đường 9 đoạn” của Trung Quốc trên các vùng biển thuộc Biển Đông. Tòa đã khẳng định không có cơ sở pháp lý đối với tuyên bố quyền lịch sử của Trung Quốc đối với các tài nguyên ở Biển Đông bên ngoài giới hạn của các vùng biển mà Trung Quốc được hưởng theo Công ước. Phán quyết này có ý nghĩa không chỉ đối với Philippines, mà còn đối với các quốc gia trong tranh chấp ở Biển Đông, khi mà yêu sách quyền lịch sử trong khu vực “đường 9 đoạn” của Trung Quốc đã lấn sâu vào vùng biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của các quốc gia khác, trong đó có Việt Nam.

Đây không phải lần đầu tiên một cơ quan tài phán quốc tế phủ nhận yêu sách quyền lịch sử như một cơ sở pháp lý cho yêu sách vùng biển, đặc biệt trong bối cảnh luật biển quốc tế đã có những quy định rõ ràng về phạm vi và giới hạn quyền của các quốc gia ven biển trong UNCLOS[2]. Nhìn nhận lại khái niệm quyền lịch sử qua thực tiễn các quốc gia, và phán quyết của Tòa án trong các vụ tranh chấp có liên quan, bài viết này sẽ giải thích nguồn gốc, khái niệm, và phân tích đặc điểm của quyền lịch sử qua quá trình pháp điển hóa luật biển quốc tế, thực tiễn áp dụng của các quốc gia, và phán quyết của các cơ quan tài phán quốc tế.

  1. Nguồn gốc và khái niệm quyền lịch sử trong luật biển quốc tế
Khái niệm quyền lịch sử (historic rights) chưa được quy định trong bất kì điều ước quốc tế nào về biển trong khi đó các khái niệm khác có yếu tố lịch sử như danh nghĩa lịch sử, vùng nước lịch sử, hay vịnh lịch sử đã được đề cập đến. Có thể hiểu yếu tố lịch sử trong hoạt động khai thác và sử dụng biển của các quốc gia thường được đề cập đến như một quá trình diễn biến của những sự kiện diễn ra từ quá khứ đến hiện tại, thông qua thực tiễn hoạt động của các quốc gia trên biển đối với các lợi ích mà các quốc gia có thể khai thác được từ biển như hoạt động đánh bắt cá, săn bắt các sinh vật biển… cho đến các hành động mang tính pháp lý để thực thi chủ quyền của một quốc gia. Vì vậy, điều không thể phủ nhận khi nhắc đến yếu tố lịch sử trong khái niệm quyền lịch sử hay danh nghĩa lịch sử, chính là nhấn mạnh đến yếu tố thời gian dài, mà bất kì quyền hay lợi ích các quốc gia muốn yêu sách để khẳng định các quyền lợi đó có hiệu lực từ lịch sử[3].

Như vậy, thông qua thực tiễn hoạt động sử dụng và khai thác biển, quyền lịch sử đã xuất hiện như một lập luận để các quốc gia yêu sách chủ quyền hoặc quyền chủ quyền của mình. Cụ thể, các quốc gia đã sử dụng quyền lịch sử để lập luận việc bảo tồn các hoạt động ngư trường truyền thống, hay các đặc quyền và quyền ưu tiên đối với hoạt động đánh bắt cá qua lịch sử sử dụng biển lâu dài[4] nhằm tối đa hóa lợi ích quốc gia ven biển so với các quốc gia khác cũng tiếp giáp vùng biển đó.

Yêu sách dựa trên lịch sử sử dụng biển lâu dài lần đầu tiên được Na Uy nêu ra trong vụ Ngư trường năm 1951 dựa trên danh nghĩa lịch sử, theo đó Na Uy có đặc quyền đánh cá và săn cá voi tại vùng biển Lopphavet thông qua việc Na Uy đã có quyền cấp phép những quyền đánh bắt này từ thế kỷ 17[5]. Quyền lịch sử cũng được nêu ra trong các vụ phân định biển như trong vụ phân định biển giữa Tunisia và Libya năm 1982, Tunisia đã yêu sách quyền lịch sử từ các hoạt động đánh cá trong thời gian dài[6], hay trong vụ phân định biển giữa Eritrea và Yemen năm 1999, cả hai quốc gia đã yêu cầu tòa giải quyết về quyền lịch sử liên quan đến đánh cá và thiết lập một khu vực chung để ngư dân của cả hai quốc gia có quyền khai thác[7]. Tương tự như vậy, trong vụ phân định biển giữa Barbados và Trinidad và Tobago, Barbados cũng đã yêu cầu quyền lịch sử về đánh cá trong vùng đặc quyền kinh tế của Trinidad và Tobago[8]. Gần đây nhất là vụ tranh chấp giữa Philippines và Trung Quốc kể từ năm 2013 ở Biển Đông. Trung Quốc đã yêu sách quyền lịch sử đối với các tài nguyên sinh vật và phi sinh vật trong khu vực “đường 9 đoạn” ở Biển Đông, vượt quá những vùng biển mà Trung Quốc được hưởng theo UNCLOS[9].

Như vậy, quyền lịch sử qua hoạt động khai thác, sử dụng biển và thực tiễn tranh chấp giữa các quốc gia tồn tại rất hạn chế qua yêu sách biển của một vài quốc gia, chỉ được thiết lập ở quyền đánh cá và sau này mở rộng đến khai thác tài nguyên sinh vật hay phi sinh vật biển dựa trên lập luận lịch sử sử dụng biển lâu dài của quốc gia ven biển.

Nguồn gốc của quyền lịch sử gắn liền với hoạt động đánh bắt cá của con người. Đây là một hoạt động có tính lịch sử ra đời cách đây hơn bốn mươi ngàn năm, đặc biệt gắn liền với đời sống và mưu sinh của ngư dân các quốc gia ven biển ở nhiều vùng biển trên thế giới. Hoạt động đánh bắt cá này phản ánh các yếu tố mang tính văn hóa và xã hội, và thường được xếp loại là hoạt động mang quy mô nhỏ, tạo nên hoạt động ngư nghiệp mang tính truyền thống của cộng đồng[10]. Thực tiễn hoạt động đánh cá truyền thống này thường được giới hạn trong những vùng nước gần bờ và mang tính địa phương vì những hạn chế về mặt kỹ thuật bao gồm khả năng không thể đánh bắt xa bờ của cộng đồng ngư dân, cũng như những phương thức đánh bắt hạn chế để bảo vệ nguồn cá của họ[11]. Các hoạt động ngư trường truyền thống rõ ràng đã diễn ra trước khi con người có mong muốn thiết lập các quy định chung mang tính quốc tế để điều chỉnh quyền lợi giữa các quốc gia đối với việc khai thác và sử dụng biển tại các Hội nghị luật biển quốc tế trong thế kỷ 20[12]. Vì vậy, khi các quy định của các công ước quốc tế về luật biển ra đời, các quốc gia vẫn muốn bảo vệ các yêu sách của mình liên quan đến hoạt động đánh cá truyền thống[13].

Tại các hội nghị pháp điển hóa Luật Biển quốc tế lần thứ nhất và lần thứ hai, thất bại chủ yếu của các quốc gia là sự không thống nhất trong việc xác định chiều rộng lãnh hải, và giới hạn chủ quyền của quốc gia ven biển đối với nguồn tài nguyên, khi đó chủ yếu là vùng đánh cá trong vùng nước gần bờ biển của quốc gia ven biển[14]. Ví dụ Công ước Luật Biển năm 1958 sau hội nghị lần đầu tiên chỉ quy định chủ quyền và quyền chủ quyền giới hạn đến vùng tiếp giáp lãnh hải, phần còn lại của đại dương là biển cả - nơi các quốc gia đều có quyền bình đẳng trong việc khai thác tài nguyên thiên nhiên. Giai đoạn này cũng chứng kiến quá trình đấu tranh giành độc lập thoát khỏi chủ nghĩa thuộc địa của các quốc gia đang phát triển, và nhiều quốc gia mới ra đời muốn đảm bảo sự kiểm soát lớn hơn đối với vùng nước gần bờ biển của mình[15]. Việc thiếu vắng một hiệp định quốc tế và sự phát triển khả năng đánh bắt cá xa bờ của các quốc gia phát triển đã dẫn đến việc nhiều quốc gia đưa ra các tuyên bố đơn phương về vùng đánh cá riêng biệt với bề rộng rất khác nhau. Trên thực tế một số quốc gia có tiềm lực khai thác và đánh bắt cá đều tuyên bố mở rộng vùng đánh bắt cá tiềm năng đến phạm vi 200 hải lý[16], và không muốn chia sẻ nguồn lợi này cho các quốc gia khác. Vì vậy, các quốc gia này đã sử dụng yêu sách quyền lịch sử để lập luận mở rộng quyền đánh cá ở phạm vi này. Những tuyên bố như thế này, trong đó có các tuyên bố vùng đánh cá ưu tiên của Iceland trong các vụ Ngư trường cá giữa Anh - Iceland, hay Đức - Iceland[17], đã vấp phải sự phản đối của các quốc gia ven biển truyền thống mong muốn tìm kiếm giới hạn của chủ quyền quốc gia trên biển[18].

Tuy nhiên, khi Công ước UNCLOS năm 1982 ra đời, quy định vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý trong đó các quốc gia ven biển có đặc quyền đối với các tài nguyên sinh vật và phi sinh vật của vùng nước, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển thì nhu cầu về quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên của các quốc gia ven biển đã được đáp ứng. Do vậy, hầu hết các quốc gia không còn đưa ra yêu sách dựa trên quyền lịch sử, ngoài việc sử dụng để lập luận về hoàn cảnh hữu quan trong phân định các vùng biển chồng lấn, tuy nhiên Tòa án không công nhận các lập luận dựa này[19].

Như vậy, cùng với sự phát triển ngày càng rõ ràng của các quy chế vùng biển nêu ra trong Công ước Luật Biển năm 1982, các quốc gia đã được đảm bảo quyền lợi và chia sẻ lợi ích khai thác biển với nhau. Điều này đã giúp hạn chế rất nhiều các yêu sách mở rộng vùng biển dựa trên những căn cứ không còn phù hợp với Công ước Luật Biển năm 1982, tập quán quốc tế và nguyên tắc chung của luật quốc tế, trong đó yêu sách quyền lịch sử đã bị xem là lỗi thời, chỉ được hạn hữu chấp nhận trong những vụ liên quan đến quyền đánh cá truyền thống trước khi Công ước Luật Biển năm 1982 ra đời.
  1. Đặc điểm quyền lịch sử qua thực tiễn các phán quyết của Tòa án quốc tế
Theo nghiên cứu của Ủy ban Luật Quốc tế của Liên Hiệp Quốc vào năm 1962 về chế độ pháp lý đối với vùng nước lịch sử, bao gồm vịnh lịch sử, việc hình thành danh nghĩa lịch sử là quá trình thụ đắc quyền lịch sử, trong đó nêu rõ các yếu tố để xác định có tồn tại danh nghĩa đối với vùng nước lịch sử hay không dựa vào: (i) Quốc gia thực thi chủ quyền đối với vùng biển quốc gia yêu sách là vùng nước lịch sử; (ii) Việc liên tục thực thi chủ quyền đó;(iii) Sự công nhận của các quốc gia khác[20]. Trong phán quyết phân định biển giữa Tunisia và Libya năm 1982, Tòa án Công lý Quốc tế đã lập luận về điều kiện hình thành “quyền hay vùng nước lịch sử” dựa trên thụ đắc rằng điều kiện hình thành quyền lịch sử cũng phải thỏa mãn các điều kiện về thụ đắc của vùng nước lịch sử[21], hoàn toàn giống như nghiên cứu nói trên của Ủy ban Luật Quốc tế của Liên Hiệp Quốc. Nghiên cứu Ủy ban Luật Quốc tế của Liên Hiệp Quốc cũng được nhắc lại trong phán quyết Tòa trọng tài trong vụ tranh chấp biển giữa Philippines và Trung Quốc năm 2013, Tòa khẳng định việc vùng nước lịch sử chỉ là một dạng yêu sách của quyền lịch sử, và quá trình hình thành chủ quyền đối với vùng nước lịch sử cũng tương tự các yêu sách quyền chủ quyền khác của quyền lịch sử[22]. Như vậy, đối với quyền lịch sử hay vùng nước lịch sử, “các quyền này về cơ bản phải thỏa mãn các điều kiện giống, hoặc tương tự như các điều kiện về lịch sử sử dụng lâu dài hay là quá trình thực thi quyền yêu sách bởi quốc gia trong thời gian liên tục và sự công nhận của các quốc gia khác”[23].

Đặc điểm tính lịch sử sử dụng biển lâu dài và liên tục được phản ánh qua yêu sách của các quốc gia trong thực tiễn như: Yêu sách về đặc quyền đánh cá và săn cá voi được Na Uy dựa trên lịch sử của quyền này từ thế kỷ 17[24], yêu sách về quyền đánh cá ưu tiên của Iceland dựa trên thực tiễn được công nhận trong gần hai thế kỷ[25], yêu sách về quyền lịch sử của Tunisia dựa trên danh nghĩa lịch sử được thiết lập qua hàng thế kỷ[26] hay yêu sách quyền đánh cá thủ công truyền thống của Barbados kéo dài trong một thế kỷ[27].

Đối với yêu sách về quyền lịch sử của Trung Quốc trong khu vực “đường chín đoạn”, Tòa mở rộng việc xem xét các bằng chứng mang tính lịch sử để xác định liệu Trung Quốc thực sự có quyền lịch sử này hay không trước khi Trung Quốc gia nhập Công ước. Và kết luận quan trọng của Tòa khẳng định, Trung Quốc không có bằng chứng để chứng minh rằng Trung Quốc có quyền kiểm soát đối với các vùng nước và tài nguyên trong vùng biển nằm trong “đường chín đoạn”. Tòa cho rằng, Trung Quốc đã đưa ra các bằng chứng về lịch sử sử dụng các đảo ở Biển Đông, chứ không phải vùng nước trong khu vực “đường chín đoạn”, vì vậy Tòa không công nhận bằng chứng để thiết lập quyền lịch sử đối với vùng nước trong khu vực yêu sách. Đồng thời Tòa cũng cho rằng, việc quốc gia tự do thực thi các quyền được cho phép bởi luật pháp quốc tế cũng không thể dẫn đến việc yêu sách quyền lịch sử, và cũng không thể thỏa mãn điều kiện thiết lập quyền lịch sử liên quan đến yếu tố sự công nhận của các quốc gia khác[28]. Cụ thể Tòa cho rằng, việc Trung Quốc thực hiện tự do hàng hải, tự do thương mại và đánh cá vượt quá vùng lãnh hải theo Công ước là thể hiện quyền tự do biển cả, mà những hành động này được luật pháp quốc tế cho phép mọi quốc gia, kể cả Philippines và những quốc gia ven biển khác trong khu vực Biển Đông. Trước chiến tranh thế giới thứ hai, việc sử dụng đáy biển, vượt quá giới hạn lãnh hải, được xem là quyền tự do mở rộng cho bất kì quốc gia nào có thể khai thác tới, mặc dù trên thực tế, do sự phát triển về kỹ thuật, việc tiến hành khai thác mới chỉ nổi lên trong thời gian gần đây[29]. Vì vậy, nếu Trung Quốc muốn thiết lập yêu sách quyền lịch sử đối với tài nguyên sinh vật và phi sinh vật trong vùng nước ở Biển Đông, Trung Quốc cần nêu ra bằng chứng Trung Quốc đã thực hiện các hành động không được cho phép trong phạm vi quyền tự do biển cả và các quốc gia khác đều công nhận và cho phép việc Trung Quốc thực hiện các hành động đó, cụ thể có hai điều kiện được Tòa nêu ra: (i) Trung Quốc đã nỗ lực để ngăn chặn hoặc giới hạn việc khai thác các nguồn tài nguyên này bởi công dân của những quốc gia khác trong lịch sử; (ii) Các quốc gia khác chấp nhận sự hạn chế không cho khai thác này của Trung Quốc[30]. Và Tòa kết luận đã không tìm thấy bằng chứng để cho rằng, Trung Quốc trong lịch sử đã kiểm soát việc đánh cá ở Biển Đông, vượt quá giới hạn lãnh hải của Trung Quốc, cũng như việc khai thác đối với tài nguyên phi sinh vật dưới đáy biển. Việc khai thác đáy biển chỉ mới xuất hiện khi Ủy ban về đáy biển bắt đầu đàm phán những nội dung trong Công ước năm 1982, và việc khai thác chiết tách dầu đang trong giai đoạn sơ khai, chỉ được khai thác ở vùng nước sâu trong thời gian gần đây trong khi Tập đoàn dầu khí quốc gia Trung Quốc mới chỉ được thành lập năm 1982, cùng năm mà Trung Quốc ký Công ước. Vì vậy, Tòa cho rằng Trung Quốc trong lịch sử hoàn toàn không có những hành động kiểm soát hay ngăn chặn việc khai thác tài nguyên ở vùng đáy biển, để làm cơ sở cho yêu sách quyền lịch sử đối với các tài nguyên phi sinh vật dưới đáy biển[31].

Tòa tiếp tục xem xét kể từ khi Công ước có hiệu lực vào năm 1996, liệu có sự công nhận của các quốc gia khác đối với yêu sách của Trung Quốc hay không. Tòa nhận thấy, Tuyên bố 05/2009 của Trung Quốc lần đầu tiên nêu rõ bản đồ đường 9 đoạn gởi lên Liên Hiệp Quốc cùng với việc làm rõ các quyền yêu sách, tuyên bố này đã vấp phải sự phản đối mạnh mẽ bởi các quốc gia khác. Như vậy, theo quan điểm của Tòa, Trung Quốc không thể có được sự công nhận từ các quốc gia khác đối với yêu sách lịch sử của mình[32].

Như vậy, trong vụ kiện này, quyền lịch sử không phải là một cơ sở pháp lý để Trung Quốc yêu sách các vùng biển trong Biển Đông. Ý nghĩa quan trọng của phán quyết này là sự khẳng định tính phi lý của “đường chín đoạn”, và bác bỏ hoàn toàn yêu sách quyền lịch sử đối với vùng nước phía trong “đường chín đoạn”, nằm hoàn toàn bên ngoài giới hạn của các vùng biển mà Trung Quốc được hưởng theo Công ước.

Cùng với sự phát triển của luật biển quốc tế, đa số các quyền lịch sử hiện nay đã được thay thế bởi quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển trong vùng đặc quyền kinh tế. Quyền lịch sử của các quốc gia khác nếu có được thiết lập cũng phải nhường hiệu lực cho quyền chủ quyền và quyền tài phán mà Công ước Luật Biển năm 1982 quy định là đặc quyền cho các quốc gia ven biển. Tòa cũng phân tích rằng yêu sách về quyền lịch sử có thể có hiệu lực ở chừng mực mà các quyền lợi của quốc gia nêu ra trong yêu sách này phù hợp với hệ thống các vùng biển theo quy định của Công ước. Kể từ khi Công ước Luật Biển năm 1982 ra đời, quyền lịch sử đã được thay thế bởi quyền chủ quyền và quyền tài phán tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa theo quy định của Công ước. Lý do chính là, UNCLOS đã đáp ứng được tất cả các yêu sách hợp lý của các quốc gia ven biển, nên hầu hết các quốc gia không còn đưa ra yêu sách biển dựa trên quyền lịch sử. Trong quá trình đàm phán của Hội nghị luật biển lần thứ ba của Liên Hiệp Quốc, các quốc gia đã thống nhất loại bỏ nội dung vùng nước lịch sử và các quyền liên quan, cũng như loại bỏ quyền ưu tiên hay quyền lịch sử đánh bắt cá trong vùng đặc quyền kinh tế… trong Công ước Luật Biển năm 1982[33]. Trong vụ phân định biển giữa Tunisia và Libya năm 1982, Tòa Công lý Quốc tế đã khẳng định rằng việc viện dẫn quyền lịch sử không thể xâm phạm đến quyền chủ quyền và quyền tài phán đương nhiên tại thềm lục địa của một quốc gia khác[34]. Trong vụ tranh chấp giữa Philippines và Trung Quốc, Tòa cũng lập lại quan điểm trên khi bác bỏ những yêu sách quyền lịch sử của Trung Quốc vì đã xâm phạm vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Philippines[35].

3. Kết luận

Con người từ thời xa xưa đã biết tận dụng và khai thác đại dương cho giao thông hàng hải và đánh bắt cá. Nhằm mục đích bảo tồn hoạt động khai thác biển và tối đa hóa lợi ích quốc gia, một số quốc gia, trong đó có Trung Quốc đã sử dụng quyền lịch sử để mở rộng yêu sách trên biển. Từ thực tiễn các quốc gia và số ít các án lệ của Tòa án quốc tế về quyền lịch sử, để thỏa mãn yêu sách về quyền lịch sử, các quốc gia cần phải thực thi quyền lịch sử trong thời gian dài, liên tục và đạt được sự công nhận của các quốc gia khác. Tuy nhiên, đến nay khái niệm quyền lịch sử bị coi là lỗi thời, và đã bị các quốc gia đồng ý xóa bỏ khi Công ước Luật Biển năm 1982 về luật biển ra đời, bị thay thế bởi quyền chủ quyền và quyền tài phán trong Công ước tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.

Trong vụ tranh chấp giữa Philippines và Trung Quốc, yêu sách về quyền lịch sử mà Trung Quốc đưa ra đối với các tài nguyên ở Biển Đông trong khu vực “đường chín đoạn”, chiếm đến hơn 80% diện tích của vùng biển này mà không dựa trên các cơ sở pháp lý, không được thừa nhận bởi các quốc gia hữu quan, chồng lấn vào vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia ven biển là sự đi ngược lại các quy định của pháp luật quốc tế. Vì vậy, yêu sách phi lý này đã bị Tòa trọng tài bác bỏ trong vụ kiện trên.

ThS. Bạch Thị Nhã Nam
Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc Gia TP. Hồ Chí Minh


[1] Dựa theo Thông cáo báo chí của Tòa Trọng tài thường trực tại La Hague, Hà Lan được công bố trên website chính thức của tổ chức

[2] Trước khi Công ước Luật Biển năm 1982 có hiệu lực, Tòa án ICJ đã công nhận yêu sách quyền lịch sử của các quốc gia qua hai vụ việc: Vụ Ngư trường Na Uy năm 1951, và vụ phân định biển giữa Tunisia và Libya năm 1982. Tuy nhiên, trong các vụ tranh chấp sau đó, phán quyết của Tòa đã bác bỏ quyền lịch sử như một cơ sở pháp lý để các bên đưa ra yêu sách.

[3] Xem Clive Clive R. Symmons, Historic Waters in the Law of the Sea: A Modern Re-Appraisal (Vùng nước lịch sử trong luật biển: Một góc nhìn đánh giá lại mang tính hiện đại), Martinus Nijhoff Publisher, Leiden, Boston 2008, tr.2.

[4] Xem yêu sách của Iceland trong vụ ngư trường giữa Đức và Iceland, Báo cáo của Tòa án công lý quốc tế (“ICJ”), 1974

[5] “Những quyền này đã được trao cho Thiếu tá Hải quân Erich Lorch trên cơ sở một số giấy phép…và những ngư trường có liên quan được coi là nằm hoàn toàn trong chủ quyền của Na Uy.”, xem phán quyết ICJ Vụ Ngư trường Na Uy 1951, tr. 30

[6] Vụ phân định biển giữa Tunisia và Libya, Phán quyết của ICJ, 1982, đoạn 97 - 98, tr.57-58.

[7]Phán quyết của trọng tài trong vụ phân định biển giữa Eritrea và Yemen 1999 giai đoạn 2, đoạn 89 - 90

[8]Phán quyết của Tòa trọng tài trong vụ phân định biển giữa Barbados v. Trinidad và Tobago, 2006, đoạn 98

[9] Phán quyết Tòa trọng tài vụ tranh chấp biển giữa Philippines và Trung Quốc 2016, được công bố ngày 12/07/2016

[10] Xem thêm Food and Agriculture Organization (FAO). 2005-2010. Types of Fisheries. Topics Fact Sheets. Text by Andrew Smith

[11] Xem thêm Campbell and Wilson, “The Politics of Exclusion: Indonesian Fishing in the Australian Fishing Zone”, Indian Ocean Centre for Peace Studies, No. 5. Australia. 1993, p. 5, truy cập ngày 09/08/2016.

[12]Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 - 1919), vào năm 1930, Hội Quốc Liên, tiền thân của Liên Hiệp Quốc đã triệu tập Hội nghị quốc tế về Luật Biển tại Thành phố La Haye của Hà Lan. Hội nghị này đã thừa nhận chủ quyền của quốc gia ven biển đối với lãnh hải và quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải, nhưng không thống nhất được chiều rộng lãnh hải. Tiếp đến, Hội nghị quốc tế về Luật Biển lần thứ nhất tại Genève 1958, do Liên Hiệp Quốc triệu tập, có 86 nước tham dự, đã thông qua được 4 công ước quốc tế về luật biển: Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải; Công ước về đánh cá và bảo tồn tài nguyên sinh vật; Công ước về thềm lục địa; Công ước về biển cả. Tuy nhiên, một số nội dung quan trọng chưa được giải quyết: Chiều rộng lãnh hải, quyền đi qua eo biển quốc tế, giới hạn vùng đánh cá, ranh giới ngoài của thềm lục địa. Năm 1960, cũng tại Genève, Liên Hiệp Quốc triệu tập Hội nghị Luật Biển lần thứ hai để giải quyết những tồn tại nói trên, nhưng hội nghị này cũng không đạt được kết quả. Năm 1973, Liên Hiệp Quốc triệu tập Hội nghị quốc tế về Luật Biển lần thứ ba để tiếp tục thảo luận và thông qua công ước Luật Biển mới, và kết quả đánh dấu sự ra đời của UNCLOS 1982.

[13]TS. Nguyễn Thị Lan Anh, “Tại sao Quyền lịch sử bị Công ước luật biển 1982 đưa vào lịch sử?”, Tìm kiếm Giải pháp vì Hòa bình và Công lý ở Biển Đông, TS. Đặng Đình Quý (chủ biên), Nxb. Thế giới, 2015, tr.326.

[14] Phán quyết Tòa trọng tài vụ tranh chấp biển giữa Philippines và Trung Quốc 2016, đoạn 248, tr.104.

[15] Đã dẫn.

[16]Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2 (1939 - 1945), Hoa Kỳ khẳng định quyền bảo vệ nghề cá ở ngoài lãnh hải, đặc biệt là Tuyên bố Truman (1945) đã khẳng định chủ quyền đối với tài nguyên thiên nhiên của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển thuộc thềm lục địa của mình mà theo quan niệm lúc bấy giờ thì giới hạn của thềm lục địa kết thúc ở nơi có độ sâu 200m nước. Một số nước Nam Mỹ như Peru, Chile, Ecuador, (không có thềm lục địa tự nhiên), Panama, Brazil, El Salvador, Argentina, Nicaragua, cũng như một số nước Ả Rập và Caribbean cho rằng vùng đánh cá có thể mở rộng đến phạm vi 200 hải lý, nên đã đòi hỏi mở rộng một vùng biển rộng đến 200 hải lý trong quá trình thảo luận luật biển lần thứ ba. Xem thêm tại Nandan “The exclusive Economic zone: A Historacal Perspective”, The Law of the Sea, Essays in Memory of Jean Caroz, 1987.

[17] Vụ ngư trường giữa Anh - Iceland, Phán quyết, Báo cáo ICJ năm 1974, đoạn 47, tr.22; Vụ Ngư trường cá giữa Đức - Iceland, Phán quyết, Báo cáo ICJ năm 1974, đoạn 55, tr.25.

[18] Phán quyết Tòa trọng tài vụ tranh chấp biển giữa Philippines và Trung Quốc năm 2016, đoạn 248, tr.104.

[19] Vụ phân định biển giữa Qatar và Bahrain, Phán quyết, Báo cáo của năm ICJ, 2001, đoạn 236, tr.76-77, xem tại http://www.icj-cij.org/docket/files/87/7027.pdf. Trong vụ phân định biển này, Bahrain đã viện dẫn các hoạt động khai thác ngọc trai truyền thống như một hoàn cảnh hữu quan, nhưng Tòa Công lý quốc tế đã không chấp nhận lập luận này.

[20] Liên Hiệp Quốc, Chế độ pháp lý đối với vùng nước lịch sử, bao gồm vịnh lịch sử, Tài liệu Liên Hiệp Quốc UN doc.A/CN.4.143, đoạn 185 (9/03/1962).

[21] Vụ Phân định biển giữa Tunisia và Libya, Phán quyết, báo cáo ICJ, 1982, đoạn 100.

[22]Xem phán quyết Tòa trọng tài Vụ tranh chấp biển giữa Philippines và Trung Quốc 2016, đoạn 265, tr.113.

[23] Xem Clive Clive R. Symmons, Historic Waters in the Law of the Sea: A Modern Re-Appraisal (Vùng nước lịch sử trong luật biển: Một góc nhìn đánh giá lại mang tính hiện đại), Martinus Nijhoff Publisher, Leiden, Boston 2008, tr.4.

[24]Đã dẫn, Xem phán quyết ICJ Vụ Ngư trường Na Uy 1951, tr.142.

[25] Chính phủ Iceland đã lập luận về các quy định quyền ưu tiên tại Luật năm 1948 rằng: “Trước đây, khi các thiết bị đánh cá không hiệu quả như ngày nay, vấn đề nảy sinh trong một bối cảnh khác và việc Iceland trao đặc quyền đánh bắt cá trong các vùng biển lân cận nước này được mở rộng hơn so với thực tiễn thông thường được chấp nhận từ năm 1900”. Phán quyết vụ ngư trường Anh - Iceland, đoạn 20 và Vụ ngư trường Đức - Iceland, đoạn 21.

[26] Phán quyết vụ phân định biển giữa Tunisia và Libya, 1982, đoạn 99.

[27] Phán quyết vụ phân định biển giữa Barbados và Trinitrad & Tobago, 2006, đoạn 266.

[28] Xem phán quyết Tòa trọng tài Vụ tranh chấp biển giữa Philippines và Trung Quốc 2016, đoạn 268, tr.113. Tòa cũng nhấn mạnh lại quan điểm tương tự nêu trong vụ phân định vịnh Maine giữa Mỹ và Canada 1984, đoạn 270, tr.114.

[29] Đã dẫn, đoạn 269, tr.114.

[30] Đã dẫn, đoạn 270, tr.114.

[31] Đã dẫn, đoạn 270, tr.114 - tr.115.

[32] Đã dẫn, đoạn 275, tr.116.

[33] TS. Nguyễn Thị Lan Anh, “Tại sao Quyền lịch sử bị Công ước luật biển 1982 đưa vào lịch sử?”, Tìm kiếm Giải pháp vì Hòa bình và Công lý ở Biển Đông, TS. Đặng Đình Quý (chủ biên), Nxb. Thế giới, 2015, tr.334.

[34] Vụ phân định biển giữa Tunisia và Libya 1982, Phán quyết, Báo cáo ICJ, 1982, đoạn 100.

[35] Xem phán quyết Tòa trọng tài Vụ tranh chấp biển giữa Philippines và Trung Quốc 2016, đoạn 278, tr.117.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Khi thực hiện sắp xếp các đơn vị hành chính và thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp, việc đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động của chính quyền địa phương nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, thích ứng với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới là điều cần thiết. Các địa phương sau sắp xếp đứng trước những yêu cầu cấp thiết về đổi mới, vận hành hiệu quả mô hình tổ chức chính quyền địa phương. Bài viết đề xuất một số kiến nghị để tiếp tục đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động chính quyền địa phương, góp phần bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của nền công vụ trong bối cảnh mới.
Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 194/2025/QH15 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo cơ sở pháp lý thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Bài viết nghiên cứu, phân tích về những nội dung cần bổ sung vào chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để thực hiện việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đang lấy ý kiến nhân dân để thực hiện các chủ trương của Đảng về việc sắp xếp lại chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, không tổ chức cấp huyện. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi bộ máy hành chính phải được tổ chức khoa học, tinh, gọn, minh bạch, hiệu quả nhằm tạo đà cho đất nước phát triển càng trở lên cấp thiết. Xuất phát từ thực trạng tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã và đòi hỏi của thực tiễn, bài viết đề xuất một số gợi mở về đổi mới tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã trong thời gian tới.
Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội như hiện nay, việc tổ chức lại bộ máy chính quyền theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (dự thảo Nghị quyết) là yêu cầu tất yếu. Điều này đòi hỏi phải cải cách toàn diện cả về cấu trúc chiều ngang (sáp nhập địa giới hành chính) và chiều dọc (rút gọn cấp chính quyền trung gian) nhằm mở rộng không gian phát triển, tăng cường tính liên kết giữa trung ương và cơ sở, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân. Bài viết nghiên cứu mô hình tổ chức chính quyền địa phương gắn với địa bàn cụ thể dưới góc nhìn từ cơ sở (Tây Nguyên) để đưa ra những phân tích, nhận định và đề xuất giải pháp cho việc cải cách chính quyền địa phương theo dự thảo Nghị quyết.
So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

Bài viết phân tích, nghiên cứu thiết chế chính quyền địa phương ở Cộng hòa Pháp và Việt Nam; so sánh một số điểm tương đồng, khác biệt về tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương theo hiến pháp của hai nước. Trên cơ sở mô hình tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương của Cộng hòa Pháp, bài viết đề xuất một số kiến nghị để Việt Nam nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cuộc “cách mạng” về tinh gọn bộ máy theo các chủ trương, chính sách của Đảng và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.
Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử. Trên cơ sở nhận diện những khó khăn, vướng mắc, bài viết đề xuất các khuyến nghị để xây dựng khung pháp lý toàn diện, hiệu quả hơn trong việc tích hợp trí tuệ nhân tạo vào công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời gian tới.

Trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bài viết phân tích, đánh giá một số khía cạnh pháp lý, kinh tế của chế độ trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện về chế độ trách nhiệm hữu hạn trong pháp luật doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam.

Hoàn thiện quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dùng vào việc thờ cúng

Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng qua các thời kỳ và thực tiễn áp dụng pháp luật qua công tác xét xử của Tòa án đối với tranh chấp liên quan đến chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng, từ đó, đưa ra một số gợi mở nhằm hoàn thiện chế định này.
Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Sau hơn 11 năm triển khai thi hành, Hiến pháp năm 2013 đã tạo cơ sở hiến định quan trọng cho việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Bên cạnh những kết quả đạt được, hiện nay, việc thực hiện các quy định của Hiến pháp và pháp luật liên quan đến Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và chính quyền địa phương vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện nhằm để đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Ủy ban Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 ban hành Kế hoạch tổ chức lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Việc lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết nhằm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, huy động trí tuệ, tâm huyết và tạo sự đồng thuận, thống nhất cao của toàn dân trong việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013, bảo đảm Hiến pháp phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của Nhân dân.
Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013 là một sự kiện chính trị và pháp lý trọng đại, dù ở phạm vi, quy mô nào cũng là một công việc rất hệ trọng, thiêng liêng. Do vậy, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp phải được tiến hành thận trọng, khách quan, dân chủ, khoa học, hiệu quả với sự tham gia tích cực, đồng bộ của các cơ quan, tổ chức, các chuyên gia, nhà khoa học và toàn thể Nhân dân theo đúng chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính  – bổ sung nhiều quy định mới

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính – bổ sung nhiều quy định mới

Trên cơ sở phát biểu đề dẫn của đồng chí Trương Thế Côn, Tổng Biên tập Tạp chí Dân chủ và pháp luật, phát biểu của đồng chí Hồ Quang Huy, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính về sự cần thiết, quá trình soạn thảo và định hướng xây dựng Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm pháp luật hành chính, Hội thảo khoa học “Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi pham hành chính” đã tiếp nhận được gần 20 ý kiến phát biểu và hơn 10 bài nghiên cứu chuyên sâu. Các bài viết và ý kiến phát biểu tại Hội thảo sẽ được Tạp chí Dân chủ và Pháp luật và Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính tổng hợp, xem xét để gửi tới cá nhân, cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong quá trình xây dựng, quyết định chính sách.
Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp.
Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp  nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV khai mạc sáng ngày 05/5/2025. Đây là Kỳ họp có nhiều nội dung quan trọng, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII - Hội nghị lịch sử, bàn về những quyết sách lịch sử trong giai đoạn Cách mạng mới của nước ta, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm