Thứ năm 12/06/2025 17:38
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Bầu cử và dân chủ - Tiếp cận từ các nguyên tắc bầu cử hiến định

Quyền bầu cử là một trong các quyền chính trị quan trọng bậc nhất của người dân. Thông qua bầu cử, nhân dân trực tiếp bỏ phiếu bầu người đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của mình, để thay mặt mình thực hiện quyền lực nhà nước, góp phần thiết lập ra bộ máy nhà nước để tiến hành các hoạt động quản lý xã hội. Trong phạm vi bài viết này, tác giả đề cập góc nhìn về bầu cử và dân chủ từ các nguyên tắc bầu cử hiến định, là bảo đảm pháp lý cao nhất cho quá trình tổ chức thực hiện quyền bầu cử của công dân.


1. Nguyên tắc bầu cử qua các bản Hiến pháp của Việt Nam

Nguyên tắc bầu cử có vai trò quan trọng, là điều kiện, yêu cầu phải thực hiện trong quá trình bầu cử, quyết định tính hợp pháp, chính danh của cuộc bầu cử. Những nguyên tắc phải thống nhất với nhau, đảm bảo cho cuộc bầu cử được khách quan, dân chủ, thực hiện đúng nguyện vọng của cử tri khi lựa chọn đại biểu, đồng thời, bảo đảm quyền và trách nhiệm của cử tri trong bầu cử, là trách nhiệm của Nhà nước phải bảo đảm thực hiện các quy định về bầu cử. Có thể nói, các nguyên tắc bầu cử được hiến định là tư tưởng nền tảng, chi phối toàn bộ chế độ bầu cử. Nhìn vào các nguyên tắc bầu cử, có thể đánh giá được tính công bằng, dân chủ của chế độ bầu cử của một quốc gia.

Ở Việt Nam, nguyên tắc bầu cử được ghi nhận xuyên suốt trong các bản Hiến pháp, đạo luật gốc của nước ta, cụ thể:

Hiến pháp năm 1946 ghi nhận những nguyên tắc cơ bản của chế độ bầu cử ở Việt Nam là: “Chế độ bầu cử là phổ thông đầu phiếu. Bỏ phiếu phải tự do, trực tiếp và kín” (Điều thứ 17).

Đến Hiến pháp năm 1959, nguyên tắc trực tiếp, phổ thông, bỏ phiếu kín vẫn tiếp tục được ghi nhận. So với Hiến pháp năm 1946, nguyên tắc bầu cử được quy định tại Hiến pháp năm 1959 cũng có điểm mới, nguyên tắc “bỏ phiếu phải tự do” được thay thế bằng nguyên tắc “bình đẳng”. Điều 5 Hiến pháp năm 1959 quy định: “Việc tuyển cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp đều tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín”.

Trong Hiến pháp năm 1980, nguyên tắc bầu cử được quy định tại Điều 7, theo đó, việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Hiến pháp năm 1980 có quy định mới, đó là việc cử tri có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, nếu đại biểu đó không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.

Theo Hiến pháp năm 1992, việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.

Hiến pháp năm 2013 và Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015 tiếp tục giữ nguyên các nguyên tắc của bầu cử, gồm: “Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín” và ngày bầu cử được công bố chậm nhất là 115 ngày trước ngày bầu cử.

2. Những nguyên tắc bầu cử được áp dụng trong tiến trình bầu cử ở Việt Nam

Nguyên tắc bầu cử được áp dụng trong tiến trình bầu cử ở Việt Nam hiện nay được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013. Theo đó, việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.

Nguyên tắc phổ thông: Đây là nguyên tắc rất quan trọng, bảo đảm để mọi công dân không phân biệt dân tộc, nam, nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đến tuổi trưởng thành đều được trao quyền bầu cử (trừ những người mất năng lực hành vi dân sự hay những người bị tước quyền bầu cử theo quy định của pháp luật). Theo đó, công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.

Nhà nước bảo đảm nguyên tắc này trên hai căn bản: (i) Điều kiện pháp lý để tất cả người dân đủ điều kiện được đi bỏ phiếu. (ii) Điều kiện vật chất, Nhà nước tạo mọi điều kiện vật chất, thuận lợi cần thiết để người dân thực hiện quyền bầu cử hoặc ứng cử của mình kịp thời theo quy định pháp luật.

Nguyên tắc bầu cử phổ thông là sự bảo đảm trực tiếp cho tính dân chủ và tính chính danh của một cuộc bầu cử. Người dân tự nguyện tham gia bầu cử là thể hiện ý chí, tính tự nguyện của mình trong tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, thể hiện nhà nước thực sự là của nhân dân. Bên cạnh đó, nguyên tắc phổ thông còn thể hiện ở chỗ, cơ hội tham gia ứng cử công bằng với tất cả mọi người. Điều này góp phần tạo niềm tin của người dân vào sự lựa chọn của mình, từ đó, gia tăng tính chính danh của cơ quan đại diện, bộ máy nhà nước do người dân đã bỏ phiếu bầu chọn.

Nguyên tắc bình đẳng: Được thể hiện ở quyền bầu cử và quyền ứng cử. Về bầu cử, mỗi cử tri không phân biệt đều có một lần bỏ phiếu như nhau, giá trị lá phiếu của mỗi cử tri đều như nhau, số lượng dân cư như nhau thì bầu được số lượng đại biểu bằng nhau. Ví dụ như: Cử tri A, cử tri B, cử tri C… đi bầu tại đơn vị bầu cử X thì phiếu của A, của B, của C đều có giá trị như nhau và cũng giống như tất cả phiếu của các cử tri khác trong đơn vị bầu cử X và tương tự như vậy ở các đơn vị bầu cử. Tuy nhiên, giá trị lá phiếu của các cử tri ở các đơn vị bầu cử khác nhau có thể khác nhau vì còn phụ thuộc vào số lượng cử tri ở mỗi đơn vị bầu cử, tức là số lượng đại biểu được bầu căn cứ trên số lượng cử tri ở mỗi đơn vị bầu cử của từng địa phương.

Nguyên tắc bình đẳng còn thể hiện ở giữa các ứng cử viên trong một cuộc bầu cử. Khi đã được giới thiệu trong danh sách ứng cử viên thì các ứng cử viên dù thuộc thành phần nào cũng đều có quyền và nghĩa vụ bằng nhau. Trong danh sách ứng cử viên công bố tới cử tri, thứ tự tên của các ứng cử viên được xếp theo được xếp theo vần chữ cái A, B, C… Pháp luật Việt Nam quy định “kinh phí tuyên truyền, vận động bầu cử được bảo đảm bằng ngân sách nhà nước”[1]. Hành vi “sử dụng hoặc hứa tặng, cho, ủng hộ tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất để lôi kéo, mua chuộc cử tri”[2] đều bị cấm. Có thể nói, quy định chặt chẽ để bảo đảm sự bình đẳng giữa các ứng cử viên trong vận động bầu cử là một sắc màu đặc thù của nguyên tắc bình đẳng bầu cử ở Việt Nam.

Nguyên tắc trực tiếp: Nhằm bảo đảm cho người dân trực tiếp thể hiện ý chí của mình trong lựa chọn đại biểu, cử tri đồng ý bầu chọn ứng cử viên nào thì bỏ phiếu thẳng cho người đó và được tính trực tiếp vào kết quả bầu chọn đối với ứng cử viên. Cử tri được trực tiếp bỏ phiếu mà không qua người trung gian, cử tri cũng trực tiếp lựa chọn người mình bỏ phiếu, trực tiếp lựa chọn người mà mình giao quyền, vì vậy, nguyên tắc bầu cử trực tiếp là nhân tố quan trọng bảo đảm tính dân chủ của cuộc bầu cử, tức là người dân thực sự làm chủ và chọn người nắm giữ quyền lực.

Theo Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015[3], mỗi cử tri có quyền bỏ một phiếu bầu đại biểu Quốc hội và bỏ một phiếu bầu đại biểu Hội đồng nhân dân tương ứng với mỗi cấp Hội đồng nhân dân. Cử tri phải tự mình đi bầu cử, không được nhờ người khác bầu cử thay, trừ những trường hợp: (i) Cử tri không thể tự viết được phiếu bầu thì nhờ người khác viết hộ, nhưng phải tự mình bỏ phiếu; người viết hộ phải bảo đảm bí mật phiếu bầu của cử tri. Trường hợp cử tri vì khuyết tật không tự bỏ phiếu được thì nhờ người khác bỏ phiếu vào hòm phiếu. (ii) Cử tri ốm đau, già yếu, khuyết tật không thể đến phòng bỏ phiếu được thì Tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến chỗ ở, chỗ điều trị của cử tri để cử tri nhận phiếu bầu và thực hiện việc bầu cử. Đối với cử tri là người đang bị tạm giam, người đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc mà trại tạm giam, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc không tổ chức khu vực bỏ phiếu riêng hoặc cử tri là người đang bị tạm giữ tại nhà tạm giữ thì Tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến trại tạm giam, nhà tạm giữ, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc để cử tri nhận phiếu bầu và thực hiện việc bầu cử. Khi bầu cử, cử tri phải xuất trình thẻ cử tri.

Nguyên tắc bỏ phiếu kín: Nguyên tắc bỏ phiếu kín nhằm bảo đảm tôn trọng quyền tự do thể hiện ý chí của cử tri, tạo điều kiện để quá trình lựa chọn của mỗi cử tri không bị tác động, ảnh hưởng bởi các cá nhân hoặc tổ chức khác và không ai được biết nội dung phiếu bầu của cử tri. Bỏ phiếu kín, bảo đảm công đoạn viết phiếu và bỏ phiếu phải được tổ chức sao cho không ai được biết nội dung của lá phiếu cũng như sự lựa chọn của cử tri ngoài chính bản thân cử tri. Cụ thể hóa nguyên tắc bỏ phiếu kín, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015[4] quy định khi cử tri viết phiếu bầu thì không ai được xem, kể cả thành viên Tổ bầu cử, tức là những người phụ trách bầu cử ở địa phương, trong trường hợp có người viết hộ thì người viết hộ phải bảo đảm bí mật phiếu bầu của cử tri.

Việc thực hiện nguyên tắc bỏ phiếu kín là nhằm bảo đảm tính khách quan của cuộc bầu cử. Bầu chọn người nắm giữ quyền lực nhà nước là một vấn đề lựa chọn riêng, tự nguyện và giữ bí mật phiếu bầu là quy định bảo đảm cử tri có thể tiến hành lựa chọn ứng cử viên một cách tự do mà không e ngại bất cứ hậu quả bất lợi nào đối với mình, từ đó bảo đảm tính khách quan, dân chủ của cuộc bầu cử.

3. Một số vấn đề đặt ra và điều kiện bảo đảm thực hiện nguyên tắc bầu cử, quyền bầu cử hiện nay

3.1. Xu hướng hoàn thiện về các nguyên tắc bầu cử trên thế giới

Xu hướng hoàn thiện pháp luật về bầu cử ở nhiều quốc gia trên thế giới[5] dành sự tập trung vào các quy định về nguyên tắc bầu cử phổ thông theo hướng mở rộng phạm vi công dân có quyền bầu cử; nhà nước hoàn thiện, bảo đảm pháp lý và bảo đảm thực tế tốt hơn việc thực hiện quyền bầu cử cho công dân, trong một số trường hợp nhất định thì cách thức bỏ phiếu có thể được thực hiện khác nhau, có thể trực tiếp bỏ lá phiếu vào thùng phiếu hoặc qua thư điện tử…; các nguyên tắc bầu cử được quy định rõ ràng, minh bạch về quyền bầu cử, ứng cử, phân chia đơn vị bầu cử, phân bổ số đại biểu cho các đơn vị bầu cử, giới thiệu người ứng cử, người tự ứng cử tham gia các cuộc bầu cử; vận động tranh cử, chương trình hành động của các ứng cử viên, cách thức bỏ phiếu, nguyên tắc xác định kết quả bầu cử.

3.2. Một số điều kiện bảo đảm thực hiện nguyên tắc bầu cử, quyền bầu cử

Một là, về quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân

Để bảo đảm thực hiện chế độ bầu cử và dân chủ, xu hướng chung của thế giới, cũng như của Việt Nam là hướng tới hoàn thiện chế độ bầu cử phổ thông, bình đẳng, dễ tiếp cận. Căn cứ vào những điều kiện bảo đảm, cơ quan có thẩm quyền có thể nghiên cứu, quy định thêm hình thức truyền tải sự lựa chọn, như bỏ phiếu qua thư tín hay thư điện tử… tạo sự thuận tiện cho người dân thực hiện quyền của mình.

Theo tác giả, cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu, có những quy định cụ thể hơn về trình tự, thủ tục tự ứng cử để tạo điều kiện cho người dân thực hiện quyền này một cách dễ dàng, góp phần bảo đảm trên thực tế các điều kiện để công dân có thể thực hiện tốt hơn quyền về chính trị đã được Hiến pháp quy định.

Hai là, về tiêu chuẩn, cơ cấu đại biểu Quốc hội

Tiêu chuẩn đại biểu là một căn cứ quan trọng để cử tri có cơ sở lựa chọn, giới thiệu người ra ứng cử hoặc tự ứng cử, bầu cử. Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình và của nhân dân cả nước. Quốc hội là nơi để cử tri và nhân dân cả nước gửi gắm niềm tin và nguyện vọng của mình, vì vậy, để nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của Quốc hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân thì việc lựa chọn những đại biểu thực sự có đức, có tài, có tâm, có tầm sẽ nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội. Cử tri cả nước cần sáng suốt lựa chọn ứng viên có uy tín cao, có khả năng đại diện thực sự cho lợi ích chung của dân, lợi ích quốc gia.

Ba là, về hiệp thương lựa chọn, giới thiệu ứng cử viên và đơn vị bầu cử

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể tăng cường vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện quyền làm chủ, xây dựng nhà nước của dân, bầu ra cơ quan đại diện Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp một cách thực sự dân chủ, thông qua việc giới thiệu người ứng cử, tổ chức hiệp thương dân chủ, tuyên truyền vận động bầu cử; kiên quyết khắc phục lối dân chủ hình thức, làm thay nhân dân.

Cần kết hợp tổ chức đơn vị bầu cử một cách đa dạng, vừa tổ chức đơn vị bầu cử theo đơn vị hành chính, vừa theo tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, cộng đồng doanh nghiệp, hiệp hội nghề nghiệp; thực hiện tốt các biện pháp tổ chức trực tiếp, để cử tri thực sự nắm rõ về ứng cử viên và khi được bầu, các ứng cử viên phải thực sự là tiêu biểu cho các cơ quan, tổ chức đó, các ngành, các giới, các hiệp hội; gắn bó chặt chẽ và vì lợi ích cử tri, nhân dân. Giám sát, kiểm tra chặt các tổ chức bầu cử, trong đó, cần có thiết chế trong việc kiểm tra, giám sát của cả Nhà nước và xã hội, bảo đảm tính khách quan, chính xác của kết quả bầu cử bằng việc huy động sự tham gia của cử tri vào công tác kiểm phiếu và bố trí bàn bỏ phiếu với vị trí phù hợp, kín và có sự ngăn cách giữa các cử tri tham gia bỏ phiếu.

Bốn là, nâng cao nhận thức về quyền bầu cử và thực hiện quyền bầu cử của cử tri

Cần đánh giá thực tiễn thi hành các quy định pháp luật về bầu cử, thực tiễn trong các kỳ bầu cử. Tình trạng bầu hộ, bầu thay vẫn diễn ra trên thực tiễn, điều này dẫn tới hệ quả là không phản ánh được thực chất của kết quả bầu cử, không phản ánh được ý chí, nguyện vọng của cử tri trong việc lực chọn người đại diện cho mình. Vì vậy, cần tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bầu cử; khuyến khích người dân chủ động tìm hiểu các quy định pháp luật về công tác bầu cử, các thông tin về danh sách cử tri, danh sách đại biểu ứng cử, tiểu sử tóm tắt các đại biểu ứng cử. Trong quá trình triển khai cuộc bầu cử, kịp thời ghi nhận ý kiến đóng góp, kiến nghị của cử tri để các cơ quan xem xét, khắc phục, đảm bảo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng của tiến trình bầu cử.

ThS. Nguyễn Thị Thục
Học viện Ngân hàng


[1]. Điều 62 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015.

[2]. Điều 68 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015.

[3]. Điều 69 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015.

[4]. Khoản 3, 5 Điều 69 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015.

[5]. https://tcnn.vn/news/detail/49308/Hoan-thien-phap-luat-ve-bau-cu-o-Viet-Nam.html, đăng ngày 15/12/2020.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 194/2025/QH15 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo cơ sở pháp lý thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Bài viết nghiên cứu, phân tích về những nội dung cần bổ sung vào chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để thực hiện việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đang lấy ý kiến nhân dân để thực hiện các chủ trương của Đảng về việc sắp xếp lại chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, không tổ chức cấp huyện. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi bộ máy hành chính phải được tổ chức khoa học, tinh, gọn, minh bạch, hiệu quả nhằm tạo đà cho đất nước phát triển càng trở lên cấp thiết. Xuất phát từ thực trạng tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã và đòi hỏi của thực tiễn, bài viết đề xuất một số gợi mở về đổi mới tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã trong thời gian tới.
Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội như hiện nay, việc tổ chức lại bộ máy chính quyền theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (dự thảo Nghị quyết) là yêu cầu tất yếu. Điều này đòi hỏi phải cải cách toàn diện cả về cấu trúc chiều ngang (sáp nhập địa giới hành chính) và chiều dọc (rút gọn cấp chính quyền trung gian) nhằm mở rộng không gian phát triển, tăng cường tính liên kết giữa trung ương và cơ sở, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân. Bài viết nghiên cứu mô hình tổ chức chính quyền địa phương gắn với địa bàn cụ thể dưới góc nhìn từ cơ sở (Tây Nguyên) để đưa ra những phân tích, nhận định và đề xuất giải pháp cho việc cải cách chính quyền địa phương theo dự thảo Nghị quyết.
So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

Bài viết phân tích, nghiên cứu thiết chế chính quyền địa phương ở Cộng hòa Pháp và Việt Nam; so sánh một số điểm tương đồng, khác biệt về tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương theo hiến pháp của hai nước. Trên cơ sở mô hình tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương của Cộng hòa Pháp, bài viết đề xuất một số kiến nghị để Việt Nam nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cuộc “cách mạng” về tinh gọn bộ máy theo các chủ trương, chính sách của Đảng và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.
Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử. Trên cơ sở nhận diện những khó khăn, vướng mắc, bài viết đề xuất các khuyến nghị để xây dựng khung pháp lý toàn diện, hiệu quả hơn trong việc tích hợp trí tuệ nhân tạo vào công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời gian tới.

Trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bài viết phân tích, đánh giá một số khía cạnh pháp lý, kinh tế của chế độ trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện về chế độ trách nhiệm hữu hạn trong pháp luật doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam.

Hoàn thiện quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dùng vào việc thờ cúng

Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng qua các thời kỳ và thực tiễn áp dụng pháp luật qua công tác xét xử của Tòa án đối với tranh chấp liên quan đến chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng, từ đó, đưa ra một số gợi mở nhằm hoàn thiện chế định này.
Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Sau hơn 11 năm triển khai thi hành, Hiến pháp năm 2013 đã tạo cơ sở hiến định quan trọng cho việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Bên cạnh những kết quả đạt được, hiện nay, việc thực hiện các quy định của Hiến pháp và pháp luật liên quan đến Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và chính quyền địa phương vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện nhằm để đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Ủy ban Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 ban hành Kế hoạch tổ chức lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Việc lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết nhằm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, huy động trí tuệ, tâm huyết và tạo sự đồng thuận, thống nhất cao của toàn dân trong việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013, bảo đảm Hiến pháp phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của Nhân dân.
Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013 là một sự kiện chính trị và pháp lý trọng đại, dù ở phạm vi, quy mô nào cũng là một công việc rất hệ trọng, thiêng liêng. Do vậy, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp phải được tiến hành thận trọng, khách quan, dân chủ, khoa học, hiệu quả với sự tham gia tích cực, đồng bộ của các cơ quan, tổ chức, các chuyên gia, nhà khoa học và toàn thể Nhân dân theo đúng chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính  – bổ sung nhiều quy định mới

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính – bổ sung nhiều quy định mới

Trên cơ sở phát biểu đề dẫn của đồng chí Trương Thế Côn, Tổng Biên tập Tạp chí Dân chủ và pháp luật, phát biểu của đồng chí Hồ Quang Huy, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính về sự cần thiết, quá trình soạn thảo và định hướng xây dựng Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm pháp luật hành chính, Hội thảo khoa học “Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi pham hành chính” đã tiếp nhận được gần 20 ý kiến phát biểu và hơn 10 bài nghiên cứu chuyên sâu. Các bài viết và ý kiến phát biểu tại Hội thảo sẽ được Tạp chí Dân chủ và Pháp luật và Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính tổng hợp, xem xét để gửi tới cá nhân, cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong quá trình xây dựng, quyết định chính sách.
Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp.
Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp  nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV khai mạc sáng ngày 05/5/2025. Đây là Kỳ họp có nhiều nội dung quan trọng, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII - Hội nghị lịch sử, bàn về những quyết sách lịch sử trong giai đoạn Cách mạng mới của nước ta, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.

Bàn về các xu hướng phát triển của pháp luật Việt Nam trong kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Các xu hướng phát triển pháp luật là biểu hiện các quy luật phát triển pháp luật có ý nghĩa phương pháp luận, lý luận và thực tiễn quan trọng, gắn liền với việc xây dựng chiến lược phát triển pháp luật ở nước ta; các xu hướng phát triển pháp luật chịu sự tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau. Bài viết nghiên cứu, tìm hiểu các xu hướng phát triển pháp luật Việt Nam trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm