Thứ năm 19/06/2025 10:32
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Căn cứ đánh giá pháp luật về quyền được sống trong môi trường trong lành và phương hướng bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành

Nguyên tắc mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành lần đầu tiên được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013, đánh dấu sự tiến bộ trong nhận thức về môi trường.

Nguyên tắc mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành lần đầu tiên được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013, đánh dấu sự tiến bộ trong nhận thức về môi trường. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, vấn đề môi trường được gắn kết với vấn đề quyền con người và cũng là lần đầu tiên, trách nhiệm của Nhà nước, tổ chức, cá nhân được Hiến định cụ thể trong việc bảo vệ môi trường để phát triển bền vững. Tuy nhiên, nội dung và phạm vi của quyền này cũng như việc thực thi quyền trên thực tế như thế nào để đạt được mục đích cải thiện môi trường trong lành cho tất cả mọi người lại là vấn đề khá mới mẻ. Trong phạm vi bài viết, tác giả tập trung phân tích và làm rõ những căn cứ đánh giá pháp luật về quyền được sống trong môi trường trong lành và các phương hướng bảo đảm quyền được sống trong môt trường trong lành.
1. Căn cứ đánh giá pháp luật về quyền được sống trong môi trường trong lành
Thứ nhất, tính toàn diện của pháp luật về quyền được sống trong môi trường trong lành.
Quyền được sống trong môi trường trong lành là một quyền mới trong Hiến pháp năm 2013: “Mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành” (Điều 43). Tiếp sau đó, nhiều chỉ thị, nghị quyết và hàng loạt văn bản quy phạm pháp luật có liên quan tới quyền con người và bảo vệ môi trường được ban hành, trong đó quan trọng nhất là Luật Bảo vệ môi trường năm 2020. Trước đó, Luật Bảo vệ Môi trường năm 2014 lần đầu tiên đã cụ thể hóa quy định “mọi người có quyền được sống trong môi trường trong lành và có nghĩa vụ bảo vệ môi trường”. Khoản 2 Điều 4 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 có quy định: “Bảo vệ môi trường gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế, an sinh xã hội, bảo đảm quyền trẻ em, thúc đẩy giới và phát triển, bảo tồn đa dạng sinh học, ứng phó với biến đổi khí hậu để đảm bảo quyền mọi người được sống trong môi trường trong lành”. Như vậy, trên tinh thần của Hiến pháp năm 2013, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 và năm 2020 đã lần lượt ra đời, kế thừa và khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, luật hóa chủ trương của Đảng, quy định cụ thể hơn nội dung bảo vệ môi trường trong các hoạt động kinh tế, sản xuất, kinh doanh, nhất là trách nhiệm của chủ đầu tư và người đứng đầu cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; đồng thời, bổ sung một số nội dung mới nhằm đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường trong giai đoạn mới như: Tăng trưởng xanh, biến đổi khí hậu, an ninh môi trường...; hài hòa các quy định của Luật và các cam kết quốc tế về môi trường thể hiện tại các điều ước quốc tế về môi trường mà Việt Nam đã ký kết, tham gia[1].
Các quy định của pháp luật về quyền được sống trong môi trường trong lành tương đối đầy đủ cả ở luật nội dung và hình thức, cũng như tiếp thu những quy định của các Công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, nhưng chưa có một cơ chế pháp lý hữu hiệu trong việc kiểm soát các hoạt động tác động vào tự nhiên, ảnh hưởng đến môi trường, sinh thái. Cụ thể, các chế tài chưa thích hợp và chưa đủ mạnh để trừng trị và răn đe những hành vi vi phạm. Vì vậy, nghĩa vụ đánh giá tác động môi trường của các chủ thể tham gia vào hoạt động sản xuất, kinh doanh hầu như còn hình thức. Các hoạt động gây ảnh hưởng đến môi trường, sinh thái như gây ô nhiễm nguồn nước, không khí, chặt phá rừng... vẫn tiếp tục diễn ra, không được ngăn chặn triệt để.
Thứ hai, tính đồng bộ của pháp luật về quyền được sống trong môi trường trong lành.
Tính đồng bộ thể hiện sự thống nhất của pháp luật. Đó là sự đồng bộ giữa các bộ phận cấu thành pháp luật về quyền được sống trong môi trường trong lành. Theo đó, các quy định pháp luật trong lĩnh vực môi trường cần loại bỏ sự trùng lặp, chồng chéo hoặc mâu thuẫn. Ở mức độ cao hơn, trong mỗi bộ phận cấu thành này phải tạo ra được một nhóm hoặc một hệ thống quy phạm pháp luật cơ bản để tạo cơ sở củng cố tính thống nhất của cả bộ phận. Đồng thời, các quy phạm pháp luật cụ thể trong mỗi bộ phận cấu thành, cũng phải thống nhất, không mâu thuẫn, chồng chéo với nhau.
Hiện nay, văn bản quy phạm pháp luật về môi trường khá nhiều nhưng còn thiếu đồng bộ, chưa xác định rõ hướng đi và lộ trình nên một số lĩnh vực chuyên sâu còn thiếu văn bản điều chỉnh. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc thực thi pháp luật về quyền được sống trong môi trường trong lành gặp khó khăn và hiệu quả không cao. Các văn bản còn chồng chéo, chưa đồng bộ, việc quản lý còn gặp nhiều lúng túng, nhiều vấn đề, văn bản có quy định, nhưng thực thi chưa hiệu quả. Nguyên nhân của thực trạng này là do chồng chéo, ngành nào cũng có bộ phận phụ trách về quản lý môi trường, dưới địa phương cũng có, nhưng cuối cùng lại rất lúng túng trong thực hiện.
Thứ ba, kỹ thuật lập pháp của pháp luật về quyền được sống trong môi trường trong lành.
Kỹ thuật pháp lý cao là một vấn đề tương đối rộng, phức tạp. Mỗi một quốc gia, khu vực có quan niệm riêng về trình độ kỹ thuật pháp lý. Khi xây dựng và hoàn thiện pháp luật, nhà làm luật phải xác định được những nguyên tắc tối ưu nhất, xuyên suốt toàn bộ quá trình này. Đây sẽ là những tư tưởng, ý chí chủ đạo định hướng cho toàn bộ các hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Trình độ kỹ thuật pháp lý thể hiện ở việc xác định chính xác cơ cấu của pháp luật. Ví dụ: Trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quyền được sống trong môi trường trong lành, cơ quan có thẩm quyền phải xác định chính xác những bộ phận cấu thành của hệ thống pháp luật này, vai trò, nhiệm vụ của từng bộ phận. Chương II Hiến pháp năm 2013 quy định quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, theo đó, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật (Điều 14); đặc biệt trong Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên đã đưa ra những quy định về quyền con người trong lĩnh vực môi trường. Đồng thời, Hiến pháp năm 2013 cũng đưa ra những quy định về điều kiện nhằm thực thi quyền về môi trường như Nhà nước có chính sách bảo vệ môi trường; quản lý, sử dụng hiệu quả, bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên; bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học; chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu; Nhà nước khuyến khích mọi hoạt động bảo vệ môi trường, phát triển, sử dụng năng lượng mới, năng lượng tái tạo; tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường, làm suy kiệt tài nguyên thiên nhiên và suy giảm đa dạng sinh học phải bị xử lý nghiêm và có trách nhiệm khắc phục, bồi thường thiệt hại...
Trình độ kỹ thuật pháp lý cao còn thể hiện ở chỗ ngôn ngữ pháp lý phải bảo đảm tính cô đọng, chính xác, logic và không đa nghĩa. Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 quy định về quyền của mọi người dân được sống trong môi trường trong lành, bảo vệ môi trường là trách nhiệm và nghĩa vụ của mọi cơ quan, tổ chức, hộ gia đình và cá nhân; bảo vệ môi trường gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế, an sinh xã hội, bảo đảm quyền trẻ em, thúc đẩy giới và phát triển, bảo tồn đa dạng sinh học, ứng phó với biến đổi khí hậu để bảo đảm quyền mọi người được sống trong môi trường trong lành; tổ chức, hộ gia đình và cá nhân gây ô nhiễm, sự cố và suy thoái môi trường phải khắc phục, bồi thường thiệt hại. Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 cũng quy định trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về quy hoạch môi trường; kế hoạch bảo vệ môi trường; ứng phó với biến đổi khí hậu; thu hồi, xử lý sản phẩm thải bỏ; xử lý trách nhiệm đối với tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường.
Đặc biệt, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã đưa ra cách hiểu về ứng phó với biến đổi khí hậu là các hoạt động của con người nhằm thích ứng và giảm thiểu biến đổi khí hậu, bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành. Tuy nhiên, có thể thấy Luật vẫn chưa có sự phân định rõ quy định nào là tập trung vào thích ứng với biến đổi khí hậu, còn quy định nào tập trung vào giảm thiểu biến đổi khí hậu. Hơn nữa, các quy định về ứng phó với biến đổi khí hậu trong Luật Bảo vệ môi trường hiện hành vẫn chưa có sự gắn kết chặt chẽ với các quy định về kiểm soát ô nhiễm môi trường không khí. Điều đó dẫn tới sự thiếu logic trong các quy định pháp luật ảnh hưởng đến quá trình thực hiện ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam hiện nay[2].
Thứ tư, tính phù hợp với pháp luật quốc tế.
Trong quá trình mở cửa, hội nhập, Nhà nước Việt Nam đã đặc biệt quan tâm đến việc bảo vệ môi trường; tích cực, chủ động hoàn thiện pháp luật, xây dựng đồng bộ các chương trình, mục tiêu quốc gia nhằm tạo sự phát triển bền vững, trong đó luôn nhấn mạnh mục tiêu bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành. Việt Nam cũng được sự giúp đỡ hiệu quả của nhiều quốc gia, nhiều tổ chức quốc tế và cá nhân trong việc bảo đảm quyền con người và môi trường. Phương pháp tiếp cận dựa trên quyền được sống trong môi trường trong lành - một kinh nghiệm quốc tế, được xem như công cụ tiến bộ trong bảo vệ môi trường cũng đang ngày càng được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam.
Hệ thống chính sách và pháp luật về môi trường của Việt Nam vẫn đang trong quá trình tiếp tục được hoàn thiện. Mặc dù Chính phủ đã có nhiều chính sách, pháp luật về môi trường được ban hành, song khuôn khổ pháp lý cho lĩnh vực môi trường còn chưa đầy đủ và thậm chí còn chồng chéo trong một số lĩnh vực cụ thể, gây khó khăn cho việc thực thi các cam kết quốc tế.
Do đó, hoàn thiện pháp luật về môi trường, đặc biệt là pháp luật về quyền được sống trong môi trường trong lành cần lưu ý đến việc hợp tác quốc tế liên quan đến vấn đề này. Bởi hợp tác quốc tế giúp Việt Nam có được nhiều lợi thế để bảo vệ, phát triển môi trường, như được hỗ trợ về vốn, về công nghệ, về kinh nghiệm quản lý và về thị trường… Với ý nghĩa đó việc hoàn thiện pháp luật về môi trường ở Việt Nam sẽ phải phù hợp với các điều ước quốc tế và khu vực về vấn đề này, đặc biệt hơn là Việt Nam càng ngày càng phải thực thi nghiêm túc những cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia, kể cả trường hợp Việt Nam chưa nội luật hóa các điều ước quốc tế đó. Đặc biệt, chúng ta lại chưa xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật môi trường của các tổ chức, cá nhân. Hơn nữa, các cơ quan nhà nước được giao trách nhiệm quản lý về môi trường thì thực hiện không hiệu quả, khi quản lý không được thì các cơ quan, chủ thể này lại không bị xử lý trách nhiệm. Do vậy trong bối cảnh xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay hoàn thiện pháp luật môi trường cần phải chú ý đến xử lý trách nhiệm của các chủ thể quản lý nhà nước về vấn đề này[3].
Vì vậy, tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực môi trường, đặc biệt là hợp tác quốc tế về pháp luật. Đó cơ chế thích hợp để đẩy mạnh hơn nữa việc nội luật hóa các cam kết quốc tế về bảo vệ môi trường mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia và xác định rõ hiệu lực pháp lý của cam kết quốc tế. Đồng thời, cần phải xây dựng cơ chế bảo đảm thực thi hiệu quả các cam kết quốc tế tại Việt Nam. Mở rộng hợp tác quốc tế về môi trường trên tinh thần tôn trọng và thực hiện nghiêm túc các công ước quốc tế mà nước ta ký kết tham gia và ưu tiên bảo đảm thực thi quyền được sống trong môi trường trong lành.
2. Phương hướng bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành
Thứ nhất, tại Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục đưa ra các mục tiêu bảo vệ môi trường đến năm 2025[4]. Đây là những mục tiêu rất quan trọng để thực hiện phát triển bền vững, thúc đẩy bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành của người dân. Để đạt được những mục tiêu đó, bên cạnh việc tiếp tục kế thừa các quan điểm được ghi nhận trong các văn kiện Đại hội trước, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các quan điểm về bảo vệ môi trường:
- Coi trọng bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành. Nâng cao chất lượng môi trường không khí, có biện pháp hạn chế ô nhiễm tiếng ồn, xử lý rác thải ở các đô thị, khu vực đông dân cư.
- Tiếp tục thúc đẩy phát triển bền vững đất nước “tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường”.
- Tiếp tục khẳng định vai trò chủ đạo của Nhà nước trong quản lý tài nguyên và môi trường. Theo đó, Nhà nước phải quản lý khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên. Xây dựng hệ thống và cơ chế giám sát tài nguyên, môi trường. Tăng cường kiểm soát các hoạt động khai thác tài nguyên, các ngành, doanh nghiệp dựa nhiều vào tài nguyên, các nguồn gây ô nhiễm, nguồn phát thải khí nhà kính.
- Chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, bằng việc xây dựng hệ thống và cơ chế giám sát biến đổi khí hậu; dự báo, cảnh báo thiên tai đến bảo vệ, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong lĩnh vực quản lý tài nguyên, môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Phát triển kinh tế xanh, ít chất thải, các bon thấp, giảm nguồn phát thải khí nhà kính.
- Cần xây dựng chiến lược an ninh nguồn nước quốc gia. Thúc đẩy hoàn thiện chính sách, pháp luật, nhất là cơ chế tài chính về khai thác, sử dụng tài nguyên nước bảo đảm công bằng, hiệu quả, bền vững trên nguyên tắc của kinh tế thị trường và quản lý tổng hợp nguồn nước, bảo đảm nghiêm ngặt an ninh nguồn nước, nhất là nước sạch cho sinh hoạt.
- Gắn vấn đề bảo vệ tài nguyên, môi trường biển với bảo vệ chủ quyền quốc gia. Thực hiện tốt chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển, kết hợp chặt chẽ với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền biển, đảo, tài nguyên, môi trường biển; phòng, chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn, thích ứng với biến đổi khí hậu, nâng cao đời sống nhân dân vùng biển, đảo.
- Thúc đẩy phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thúc đẩy tái sử dụng, tái chế và sản xuất thu hồi năng lượng từ chất thải gắn với hình thành chuỗi sản xuất tiếp nối, liên tục.
Những quan điểm, chủ trương của Đảng về bảo vệ môi trường là cơ sở quan trọng để hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện hành, trong đó có pháp luật môi trường trong thời gian tới.
Thứ hai, trong những năm qua, việc bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường tiếp tục được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước. Hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường đã có những bước phát triển mới Quốc hội thông qua Luật Bảo vệ môi trường năm 2020. Xác định bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là nhiệm vụ cấp bách và có tính chiến lược; phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với bảo vệ môi trường là nội dung cơ bản bảo đảm sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa[5]. Yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội gắn với việc bảo vệ môi trường phải được đặt ra đối với tất cả các lĩnh vực, các ngành nghề. Những nội dung này phải được ghi nhận trong các nghị quyết của Đảng và phải được thể chế hóa thành quy định của pháp luật và phải được quán triệt trong mọi lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội trên phạm vi cả nước, từng ngành và mỗi địa phương, từ đó mới có thể triển khai Hiến pháp năm 2013 vào cuộc sống. Từ đó, nêu cao trách nhiệm của các cấp ủy Đảng trong việc lãnh đạo toàn diện công tác bảo vệ môi trường, từ việc đưa ra đường lối, chủ trương phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương cho đến việc chỉ đạo, lãnh đạo các cơ quan, tổ chức trong việc đề ra các biện pháp bảo vệ môi trường ở địa phương theo từng cấp độ phát triển kinh tế - xã hội, vừa có những giải pháp trước mắt vừa có chiến lược lâu dài[6].
Thứ ba, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quyết định số 1261/QĐ-TTg ngày 05/9/2012 về Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 166/QĐ- TTg ngày 21/01/2014 về Kế hoạch thực hiện Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Đây là cơ sở quan trọng để huy động sức mạnh của toàn bộ hệ thống chính trị trong công tác bảo vệ môi trường. Để thực hiện các mục tiêu trên, cần thực hiện các biện pháp cụ thể như sau:
- Đề cao quyết tâm chính trị trong hoạt động bảo vệ quyền được sống trong môi trường trong lành bằng cách nâng cao nhận thức của các nhà lãnh đạo về quyền này.
- Nghiên cứu tổng thể pháp luật về bảo vệ môi trường, tiến hành hệ thống hoá các văn bản pháp luật quy định về vấn đề này nhằm xây dựng các quy định thống nhất, đồng bộ giữa Luật Bảo vệ môi trường với các luật liên quan nhằm tạo thuận lợi cho quá trình thực thi quyền được sống trong môi trường trong lành.
- Cụ thể hóa nguyên tắc xã hội hoá hoạt động bảo vệ môi trường cũng như nâng cao ý thức của người dân trong bảo vệ môi trường và tạo điều kiện thuận lợi cho mọi cá nhân, tổ chức tham gia hiệu quả vào quá trình này.
- Đẩy mạnh hoạt động có hiệu quả của cơ quan quản lý nhà nước về môi trường. Trong quá trình phát triển cần gắn kết chặt chẽ giữa các chiến lược, chính sách phát triển kinh tế với chiến lược, chính sách bảo vệ môi trường[7].

Nguyễn Thanh Quyên
Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh


[1] Nguyễn Việt Hải (2016), Bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học quốc gia Hà Nội, tr. 70.

[2] Bùi Đức Hiển (2016), “Hoàn thiện pháp luật về môi trường để bảo đảm phát triển bền vững”, Tạp chí Cộng sản, số 1, tr. 4.

[3] Bùi Đức Hiển (2016), “Hoàn thiện pháp luật về môi trường để bảo đảm phát triển bền vững”, Tạp chí Cộng sản, số 1, tr. 4.

[4] Tỷ lệ sử dụng nước sạch, nước hợp vệ sinh của dân cư thành thị là 95% - 100%, nông thôn là 93% - 95%; tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị bảo đảm tiêu chuẩn, quy hoạch quy chuẩn đạt 90%; tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý chất thải tập trung, đạt tiêu chuẩn môi trường 92%; tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý đạt 100%; giữ tỷ lệ che phủ rừng ổn định 42%. Tỷ lệ chất thải y tế được xử lý là 100%, tỷ trọng năng lượng tái tạo trong tổng năng lượng tiêu thụ cuối cùng là 31,5%. Đến năm 2030, phấn đấu đạt các mục tiêu phát triển bền vững về tài nguyên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu…

[5] Bùi Đức Hiển, “Hoàn thiện pháp luật về môi trường để bảo đảm phát triển bền vững”, http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/PrintStory.aspx?distribution=37343&print=true, truy cập ngày 12/8/2022.

[6] “Chiến lược bảo vệ môi trường đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030: Nhiều quyết sách quan trọng”, http://vea.gov.vn/vn/tintuc/tintuchangngay/Pages, truy cập ngày 12/08/2022.

[7] Lê Xuân Tú (2016), “Vấn đề bảo vệ môi trường theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng”,
Tạp chí Lý luận chính trị, số 6, tr. 3.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Khi thực hiện sắp xếp các đơn vị hành chính và thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp, việc đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động của chính quyền địa phương nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, thích ứng với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới là điều cần thiết. Các địa phương sau sắp xếp đứng trước những yêu cầu cấp thiết về đổi mới, vận hành hiệu quả mô hình tổ chức chính quyền địa phương. Bài viết đề xuất một số kiến nghị để tiếp tục đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động chính quyền địa phương, góp phần bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của nền công vụ trong bối cảnh mới.
Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 194/2025/QH15 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo cơ sở pháp lý thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Bài viết nghiên cứu, phân tích về những nội dung cần bổ sung vào chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để thực hiện việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đang lấy ý kiến nhân dân để thực hiện các chủ trương của Đảng về việc sắp xếp lại chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, không tổ chức cấp huyện. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi bộ máy hành chính phải được tổ chức khoa học, tinh, gọn, minh bạch, hiệu quả nhằm tạo đà cho đất nước phát triển càng trở lên cấp thiết. Xuất phát từ thực trạng tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã và đòi hỏi của thực tiễn, bài viết đề xuất một số gợi mở về đổi mới tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã trong thời gian tới.
Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội như hiện nay, việc tổ chức lại bộ máy chính quyền theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (dự thảo Nghị quyết) là yêu cầu tất yếu. Điều này đòi hỏi phải cải cách toàn diện cả về cấu trúc chiều ngang (sáp nhập địa giới hành chính) và chiều dọc (rút gọn cấp chính quyền trung gian) nhằm mở rộng không gian phát triển, tăng cường tính liên kết giữa trung ương và cơ sở, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân. Bài viết nghiên cứu mô hình tổ chức chính quyền địa phương gắn với địa bàn cụ thể dưới góc nhìn từ cơ sở (Tây Nguyên) để đưa ra những phân tích, nhận định và đề xuất giải pháp cho việc cải cách chính quyền địa phương theo dự thảo Nghị quyết.
So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

Bài viết phân tích, nghiên cứu thiết chế chính quyền địa phương ở Cộng hòa Pháp và Việt Nam; so sánh một số điểm tương đồng, khác biệt về tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương theo hiến pháp của hai nước. Trên cơ sở mô hình tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương của Cộng hòa Pháp, bài viết đề xuất một số kiến nghị để Việt Nam nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cuộc “cách mạng” về tinh gọn bộ máy theo các chủ trương, chính sách của Đảng và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.
Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử. Trên cơ sở nhận diện những khó khăn, vướng mắc, bài viết đề xuất các khuyến nghị để xây dựng khung pháp lý toàn diện, hiệu quả hơn trong việc tích hợp trí tuệ nhân tạo vào công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời gian tới.

Trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bài viết phân tích, đánh giá một số khía cạnh pháp lý, kinh tế của chế độ trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện về chế độ trách nhiệm hữu hạn trong pháp luật doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam.

Hoàn thiện quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dùng vào việc thờ cúng

Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng qua các thời kỳ và thực tiễn áp dụng pháp luật qua công tác xét xử của Tòa án đối với tranh chấp liên quan đến chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng, từ đó, đưa ra một số gợi mở nhằm hoàn thiện chế định này.
Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Sau hơn 11 năm triển khai thi hành, Hiến pháp năm 2013 đã tạo cơ sở hiến định quan trọng cho việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Bên cạnh những kết quả đạt được, hiện nay, việc thực hiện các quy định của Hiến pháp và pháp luật liên quan đến Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và chính quyền địa phương vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện nhằm để đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Ủy ban Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 ban hành Kế hoạch tổ chức lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Việc lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết nhằm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, huy động trí tuệ, tâm huyết và tạo sự đồng thuận, thống nhất cao của toàn dân trong việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013, bảo đảm Hiến pháp phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của Nhân dân.
Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013 là một sự kiện chính trị và pháp lý trọng đại, dù ở phạm vi, quy mô nào cũng là một công việc rất hệ trọng, thiêng liêng. Do vậy, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp phải được tiến hành thận trọng, khách quan, dân chủ, khoa học, hiệu quả với sự tham gia tích cực, đồng bộ của các cơ quan, tổ chức, các chuyên gia, nhà khoa học và toàn thể Nhân dân theo đúng chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính  – bổ sung nhiều quy định mới

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính – bổ sung nhiều quy định mới

Trên cơ sở phát biểu đề dẫn của đồng chí Trương Thế Côn, Tổng Biên tập Tạp chí Dân chủ và pháp luật, phát biểu của đồng chí Hồ Quang Huy, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính về sự cần thiết, quá trình soạn thảo và định hướng xây dựng Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm pháp luật hành chính, Hội thảo khoa học “Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi pham hành chính” đã tiếp nhận được gần 20 ý kiến phát biểu và hơn 10 bài nghiên cứu chuyên sâu. Các bài viết và ý kiến phát biểu tại Hội thảo sẽ được Tạp chí Dân chủ và Pháp luật và Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính tổng hợp, xem xét để gửi tới cá nhân, cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong quá trình xây dựng, quyết định chính sách.
Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp.
Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp  nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV khai mạc sáng ngày 05/5/2025. Đây là Kỳ họp có nhiều nội dung quan trọng, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII - Hội nghị lịch sử, bàn về những quyết sách lịch sử trong giai đoạn Cách mạng mới của nước ta, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm