Thứ bảy 21/06/2025 05:56
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Chế định loại trừ trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự

Loại trừ trách nhiệm hình sự là một chế định quan trọng trong Bộ luật Hình sự Việt Nam. Chế định này được đánh dấu ra đời bằng những giải thích thống nhất có tính chất chỉ đạo của Tòa án nhân dân tối cao trong thực tiễn xét xử các vụ án hình sự vào năm 1983. Trong lần pháp điển hóa pháp luật hình sự đầu tiên (Bộ luật Hình sự năm 1985) đã có 04 trường hợp được coi là loại trừ trách nhiệm hình sự.

Các trường hợp này tiếp tục được ghi nhận tại Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009). Đến Bộ luật Hình sự năm 2015, chế định này đã hoàn thiện hơn, được ghi nhận trong một chương riêng gồm 07 điều. Bài viết này sẽ đưa ra cái nhìn tổng thể về loại trừ trách nhiệm hình sự, chế định loại trừ trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự Việt Nam. Đặc biệt là một số vấn đề như: Thế nào là loại trừ trách nhiệm hình sự; đặc điểm cơ bản; ý nghĩa khoa học, thực tiễn của việc nghiên cứu; những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự được ghi nhận trong Bộ luật Hình sự năm 2015; một số điểm tiến bộ và kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện chế định loại trừ trách nhiệm hình sự trong Bộ luật Hình sự năm 2015.

1. Khái quát chung chế định loại trừ trách nhiệm hình sự

Luật hình sự các nước đều quy định về loại trừ trách nhiệm hình sự (TNHS), ở mỗi quốc gia, sự giới hạn hành vi, mức độ các trường hợp này không giống nhau. Pháp luật hình sự Việt Nam nói riêng cần phải tiếp tục được làm rõ và khẳng định về mặt lập pháp cho vấn đề này.

Loại trừ TNHS là những trường hợp được quy định trong các điều của Bộ luật Hình sự về việc gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho xã hội, khi có đủ các căn cứ do pháp luật hình sự quy định, việc gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự, nhưng không bị coi là tội phạm và người thực hiện hành vi nguy hiểm đó không phải chịu TNHS. Những trường hợp loại trừ TNHS có các đặc điểm cơ bản như: (i) Hành vi gây thiệt hại bị luật hình sự cấm và được quy định trong các điều luật cụ thể; (ii) Hành vi nguy hiểm, gây thiệt hại cho xã hội nhưng được coi là hợp pháp về mặt pháp lý, do vậy, không bị coi là tội phạm, không bị truy cứu TNHS; hành vi bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác phải trong giới hạn của luật hình sự quy định; (iii) Những trường hợp loại trừ TNHS được thực hiện trong trường hợp cụ thể không bị coi là tội phạm phải có đủ các căn cứ do Bộ luật Hình sự quy định. Hành vi đó phải đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm mà pháp luật hình sự quy định như: Tính trái pháp luật; tính chất lỗi; do người có năng lực TNHS thực hiện; hành vi có tính chất nguy hiểm cho xã hội; đủ tuổi chịu TNHS.

Việc nghiên cứu những trường hợp loại trừ TNHS có ý nghĩa khoa học, ý nghĩa thực tiễn, cụ thể: Phát huy tinh thần đấu tranh chống lại các hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật hình sự cấm; nâng cao ý thức pháp luật của người dân trong việc bảo vệ công bằng, dân chủ văn minh; hoàn thiện chế định những trường hợp loại trừ TNHS của Bộ luật Hình sự năm 2015 là bước đánh dấu cho việc thực hiện nhiệm vụ trọng tâm trong công tác cải cách tư pháp đến năm 2020. Bên cạnh đó, làm rõ được các khái niệm, bản chất pháp lý phát sinh trong thực tiễn còn nhiều tranh luận, khắc phục việc Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định về chế định này chưa phù hợp về logic do còn nằm rải rác ở các điều, các chương riêng biệt, chưa quy định đầy đủ những trường hợp phát sinh trong thực tiễn đời sống xã hội. Đồng thời, nhằm bảo đảm nguyên tắc nhân đạo của pháp luật hình sự Việt Nam trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền, giúp cho Tòa án thuận tiện khi thi hành Bộ luật Hình sự, tránh xảy ra oan, sai cho người vô tội như báo chí đã đưa ra trong thời gian gần đây.

2. Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự được ghi nhận trong Bộ luật Hình sự Việt Nam

2.1. Sự kiện bất ngờ

Điều 20 Bộ luật Hình sự năm 2015 ghi nhận: Sự kiện bất ngờ là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi do mình thực hiện, cũng như hậu quả của hành vi do mình gây ra, người thực hiện hành vi trong trường hợp này là người không có lỗi (thiếu yếu tố lỗi, thiếu dấu hiệu của mặt chủ quan của tội phạm), do vậy, hành vi của họ không cấu thành tội phạm, không bị truy cứu TNHS về hành vi nguy hiểm đó.

Hành vi gây thiệt hại do sự kiện bất ngờ là hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng trong hoàn cảnh cụ thể, người rơi vào trường hợp này cũng không thể thấy trước được hành vi của mình gây ra hậu quả nguy hiểm. Khác với trường hợp gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội trong trường hợp lỗi vô ý, ở đây do điều kiện khách quan mang lại nên không nhìn thấy trước hậu quả, không buộc phải thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội có thể xảy ra. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội không bị coi là có lỗi và không phải chịu TNHS của hành vi gây thiệt hại do mình gây ra.

2.2. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự

Điều 21 Bộ luật Hình sự năm 2015 ghi nhận: Trường hợp không có năng lực TNHS là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong trạng thái do bệnh lý tâm thần hoặc loại bệnh lý khác nên đã hoàn toàn không thể nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi do mình thực hiện, cũng như tính chất pháp lý do hành vi của mình gây ra, không điều khiển được hành vi của mình (người thực hiện hành vi trong trường hợp thiếu dấu hiệu của mặt chủ quan của tội phạm), do vậy, hành vi của họ không cấu thành tội phạm.

Hành vi gây thiệt hại do người không có năng lực TNHS thực hiện là hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhưng họ không có khả năng nhận thức, điều chỉnh hành vi, không biết được tính chất, mức độ xảy ra hậu quả nguy hiểm. Trong trường hợp này, pháp luật ghi nhận họ không có lỗi và không phải chịu TNHS.

2.3. Phòng vệ chính đáng

Điều 22 Bộ luật Hình sự năm 2015 ghi nhận: Phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả của người phòng vệ nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác đang bị xâm hại. Hành vi phòng vệ với hành vi xâm hại phải tương xứng với nhau, do đó không phải là tội phạm, không bị truy cứu TNHS. Người thực hiện hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu TNHS theo quy định của pháp luật.

Về nguyên tắc, hành vi phòng vệ chính đáng phải tương xứng với hành vi xâm hại, nếu vượt quá giới hạn thì phải chịu TNHS đối với hành vi vượt quá đó. Người thực hiện hành vi phòng vệ chính đáng thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại, không đặt ra trường hợp lỗi vô ý trong trường hợp phòng vệ chính đáng. Hành vi phòng vệ được coi là hợp pháp khi việc gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự nhằm bảo vệ các lợi ích hợp pháp của người phòng vệ hoặc của người khác để tránh khỏi hành vi xâm hại; tính chất và mức độ gây thiệt hại của hành vi phòng vệ chính đáng tương xứng với hành vi xâm hại, không vượt quá giới hạn.

2.4. Tình thế cấp thiết

Điều 23 Bộ luật Hình sự năm 2015 ghi nhận: Tình thế cấp thiết là hành vi gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự của người nào đó nhằm mục đích tránh việc gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của mình, của người khác, hoặc của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức nếu sự nguy hiểm đó không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa.

Hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết có thể là hành vi nguy hiểm cho xã hội hoặc không dựa vào mức độ tương ứng của thiệt hại cần ngăn ngừa, được thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý của chủ thể. Việc gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không bị pháp luật hình sự coi là tội phạm vì mục đích ngăn ngừa thiệt hại lớn hơn xảy ra nên không phải chịu TNHS.

2.5. Hành vi gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội

Lần đầu tiên pháp luật hình sự nước ta ghi nhận về hành vi gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội là trường hợp được loại trừ TNHS tại Điều 24 Bộ luật Hình sự năm 2015. Việc ghi nhận này hoàn toàn phù hợp với thực tiễn xét xử, thể hiện tính nhân đạo của pháp luật hình sự.

Việc bắt người phạm tội với mục đích bắt là để chuyển giao các đối tượng này cho cơ quan có thẩm quyền xử lý, đồng thời để người đó không tiếp tục thực hiện tội phạm hoặc bỏ trốn sự truy nã của cơ quan tiến hành tố tụng. Việc thực hiện hành vi gây thiệt hại là biện pháp bất đắc dĩ, cuối cùng, duy nhất, không còn cách nào khác ngoài việc dùng vũ lực gây thiệt hại cho người bị bắt giữ. Nếu không tiến hành ngay tức khắc, người đó sẽ chống trả, bỏ trốn hoặc tiếp tục gây thiệt hại nghiêm trọng. Người thực hiện hành vi trong khi bắt người phạm tội với trạng thái tâm lý là lỗi cố ý, nhằm mục đích ngăn ngừa việc tiếp tục phạm tội hoặc tẩu thoát. Việc thực hiện hành vi bắt người phải là hành vi hợp pháp, có căn cứ pháp lý như: Người bị bắt giữ đang thực hiện hành vi phạm tội quả tang, đang trốn tránh sự truy nã của cơ quan điều tra, có dấu hiệu thực tế chống trả… và người bắt giữ đã tiến hành các biện pháp khác, nhưng không còn cách nào khác là dùng vũ lực gây thiệt hại cho người bị bắt.

2.6. Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ

Lần đầu tiên pháp luật hình sự nước ta ghi nhận về hành vi gây thiệt hại do rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ là tại Điều 25 Bộ luật Hình sự năm 2015: Người gây ra thiệt hại trong việc thực hiện hành vi khi thực hiện việc nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới mặc dù đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa, cân nhắc cẩn thận, so sánh ý nghĩa, mục đích đặt ra với hậu quả rủi ro, không mong muốn xảy ra, hậu quả xảy ra phải nhỏ hơn, không đáng kể với mục đích nghiên cứu đạt được, nghiên cứu, thử nghiệm đó phải đem lại lợi ích lớn cho xã hội, cộng đồng thì không phải là tội phạm. Người nào không tuân thủ các quy trình, biện pháp phòng ngừa, gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội, vi phạm pháp luật hình sự thì phải chịu TNHS.

Hành vi rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ phải nhằm đạt được mục đích duy nhất là đem lại lợi ích cho xã hội và mục đích này đã không thể đạt được, gây ra sự rủi ro với chính việc nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Chủ thể đã cố gắng hạn chế thấp nhất những thiệt hại hoặc rủi ro mà có thể lường thấy được, đã tiến hành các biện pháp cần thiết nhất để ngăn ngừa thiệt hại có thể xảy ra và thiệt hại, rủi ro xảy ra nằm ngoài mong muốn của chủ thể.

2.7. Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên

Là chế định mới thể hiện nguyên tắc nhân đạo trong pháp luật hình sự Việt Nam, được ghi nhận tại Điều 26 Bộ luật Hình sự năm 2015: Hành vi gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự có dấu hiệu nào đó bị pháp luật hình sự cấm trong khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nếu đã thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó, thì không phải chịu TNHS. Trong trường hợp này người ra mệnh lệnh phải chịu TNHS.

Hành vi gây thiệt hại trong việc chấp hành chỉ thị là hành vi nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật hình sự cấm, do chủ thể thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên gây ra. Người thi hành mệnh lệnh gây thiệt hại với lỗi cố ý, do bắt buộc phải thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên. Người này đã làm hết trách nhiệm, quy trình báo cáo, nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó. Đây là mối quan hệ ràng buộc của người ra chỉ thị với người thực hành chỉ thị. Người thi hành mệnh lệnh chỉ thị của cấp trên không phải chịu TNHS, mà người ra chỉ thị, mệnh lệnh sẽ phải chịu TNHS về việc ra mệnh lệnh.

3. Một số nhận xét và kiến nghị

Bộ luật Hình sự năm 2015 đã có nhiều điểm tiến bộ hơn so với Bộ luật Hình sự năm 1999 khi pháp điển hóa lần này, các nhà làm luật đã tách những trường hợp loại trừ TNHS thành một chương riêng, trong đó thêm 03 trường hợp mới được ghi nhận. Điều này phù hợp với thực tiễn xét xử đặt ra, đồng thời khẳng định được nguyên tắc tiến bộ của pháp luật hình sự trong xu thế hội nhập tư pháp hình sự với các nước trong khu vực và trên thế giới hiện nay.

Mặc dù Bộ luật Hình sự năm 2015 có nhiều điểm mới, tuy nhiên, việc bổ sung này chưa đầy đủ, cần tiếp tục cập nhật một số các trường hợp khác trong thời gian tới như: (i) Đương nhiên phòng vệ chính đáng, được hiểu là “chống trả lại người đang dùng vũ khí để chống trả lại việc bắt giữ hoặc để tiếp tục phạm tội; chống trả lại người đang thực hiện hành vi giết người, hiếp dâm, cướp tài sản, chống phá trại giam, các khu vực an ninh quốc gia, quốc phòng; chống trả lại hành vi của người đang có hành vi tấn công tại chỗ ở của người khác vào ban đêm”; (ii) Tình trạng bất khả kháng; (iii) Bị ép buộc sử dụng thuốc, chất kích thích gây nghiện; (iv) Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tột ít nghiêm trọng…

Bộ luật Hình sự năm 2015 cũng cần có những giải thích cụ thể với từng trường hợp loại trừ TNHS để thuận tiện cho các cơ quan tiến hành tố tụng khi vận dụng các quy định này, tránh xảy ra nhiều cách hiểu khác nhau, áp dụng không thống nhất. Các căn cứ pháp lý của loại trừ TNHS mới chỉ mang tính chất định tính, chưa định lượng rõ ràng, cụ thể. Như vậy, việc vận dụng khi thi hành Bộ luật Hình sự trong hoạt động xét xử sẽ gặp nhiều khó khăn cho việc xác định các mức độ của các trường hợp loại trừ TNHS.

ThS. Bùi Thị Chinh Phương
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Khi thực hiện sắp xếp các đơn vị hành chính và thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp, việc đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động của chính quyền địa phương nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, thích ứng với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới là điều cần thiết. Các địa phương sau sắp xếp đứng trước những yêu cầu cấp thiết về đổi mới, vận hành hiệu quả mô hình tổ chức chính quyền địa phương. Bài viết đề xuất một số kiến nghị để tiếp tục đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động chính quyền địa phương, góp phần bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của nền công vụ trong bối cảnh mới.
Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 194/2025/QH15 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo cơ sở pháp lý thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Bài viết nghiên cứu, phân tích về những nội dung cần bổ sung vào chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để thực hiện việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đang lấy ý kiến nhân dân để thực hiện các chủ trương của Đảng về việc sắp xếp lại chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, không tổ chức cấp huyện. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi bộ máy hành chính phải được tổ chức khoa học, tinh, gọn, minh bạch, hiệu quả nhằm tạo đà cho đất nước phát triển càng trở lên cấp thiết. Xuất phát từ thực trạng tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã và đòi hỏi của thực tiễn, bài viết đề xuất một số gợi mở về đổi mới tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã trong thời gian tới.
Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội như hiện nay, việc tổ chức lại bộ máy chính quyền theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (dự thảo Nghị quyết) là yêu cầu tất yếu. Điều này đòi hỏi phải cải cách toàn diện cả về cấu trúc chiều ngang (sáp nhập địa giới hành chính) và chiều dọc (rút gọn cấp chính quyền trung gian) nhằm mở rộng không gian phát triển, tăng cường tính liên kết giữa trung ương và cơ sở, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân. Bài viết nghiên cứu mô hình tổ chức chính quyền địa phương gắn với địa bàn cụ thể dưới góc nhìn từ cơ sở (Tây Nguyên) để đưa ra những phân tích, nhận định và đề xuất giải pháp cho việc cải cách chính quyền địa phương theo dự thảo Nghị quyết.
So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

Bài viết phân tích, nghiên cứu thiết chế chính quyền địa phương ở Cộng hòa Pháp và Việt Nam; so sánh một số điểm tương đồng, khác biệt về tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương theo hiến pháp của hai nước. Trên cơ sở mô hình tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương của Cộng hòa Pháp, bài viết đề xuất một số kiến nghị để Việt Nam nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cuộc “cách mạng” về tinh gọn bộ máy theo các chủ trương, chính sách của Đảng và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.
Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử. Trên cơ sở nhận diện những khó khăn, vướng mắc, bài viết đề xuất các khuyến nghị để xây dựng khung pháp lý toàn diện, hiệu quả hơn trong việc tích hợp trí tuệ nhân tạo vào công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời gian tới.

Trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bài viết phân tích, đánh giá một số khía cạnh pháp lý, kinh tế của chế độ trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện về chế độ trách nhiệm hữu hạn trong pháp luật doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam.

Hoàn thiện quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dùng vào việc thờ cúng

Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng qua các thời kỳ và thực tiễn áp dụng pháp luật qua công tác xét xử của Tòa án đối với tranh chấp liên quan đến chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng, từ đó, đưa ra một số gợi mở nhằm hoàn thiện chế định này.
Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Sau hơn 11 năm triển khai thi hành, Hiến pháp năm 2013 đã tạo cơ sở hiến định quan trọng cho việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Bên cạnh những kết quả đạt được, hiện nay, việc thực hiện các quy định của Hiến pháp và pháp luật liên quan đến Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và chính quyền địa phương vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện nhằm để đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Ủy ban Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 ban hành Kế hoạch tổ chức lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Việc lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết nhằm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, huy động trí tuệ, tâm huyết và tạo sự đồng thuận, thống nhất cao của toàn dân trong việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013, bảo đảm Hiến pháp phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của Nhân dân.
Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013 là một sự kiện chính trị và pháp lý trọng đại, dù ở phạm vi, quy mô nào cũng là một công việc rất hệ trọng, thiêng liêng. Do vậy, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp phải được tiến hành thận trọng, khách quan, dân chủ, khoa học, hiệu quả với sự tham gia tích cực, đồng bộ của các cơ quan, tổ chức, các chuyên gia, nhà khoa học và toàn thể Nhân dân theo đúng chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính  – bổ sung nhiều quy định mới

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính – bổ sung nhiều quy định mới

Trên cơ sở phát biểu đề dẫn của đồng chí Trương Thế Côn, Tổng Biên tập Tạp chí Dân chủ và pháp luật, phát biểu của đồng chí Hồ Quang Huy, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính về sự cần thiết, quá trình soạn thảo và định hướng xây dựng Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm pháp luật hành chính, Hội thảo khoa học “Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi pham hành chính” đã tiếp nhận được gần 20 ý kiến phát biểu và hơn 10 bài nghiên cứu chuyên sâu. Các bài viết và ý kiến phát biểu tại Hội thảo sẽ được Tạp chí Dân chủ và Pháp luật và Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính tổng hợp, xem xét để gửi tới cá nhân, cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong quá trình xây dựng, quyết định chính sách.
Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp.
Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp  nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV khai mạc sáng ngày 05/5/2025. Đây là Kỳ họp có nhiều nội dung quan trọng, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII - Hội nghị lịch sử, bàn về những quyết sách lịch sử trong giai đoạn Cách mạng mới của nước ta, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm