Bộ luật Tố tụng hình sự có nhiệm vụ bảo đảm việc phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Mặc dù pháp luật có xác định phải xử lý công minh, không làm oan người vô tội, nhưng ở vị thế độc quyền chân lý, sự chủ quan là khó tránh khỏi. Với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội đòi hỏi phải có nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính đủ bảo đảm để pháp luật và công lý được tôn trọng[1], do đó, cần đánh giá lại một cách cụ thể hơn mục đích của tố tụng hình sự (TTHS).
Chính sách pháp luật hình sự nhằm đáp ứng ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm hình sự, đặc biệt là các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội tham nhũng và các loại tội phạm có tổ chức; bảo vệ trật tự, kỷ cương; bảo đảm và tôn trọng dân chủ, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân[2]. Như vậy, chính sách pháp luật TTHS trong thời gian tới phải hướng tới mục tiêu giải quyết vụ án hình sự khách quan mà nền tảng là dựa trên cơ chế tranh tụng, chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, đảm bảo xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội, giáo dục công dân ý thức tôn trọng pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm Nhà nước ta thực sự là của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
2. Định hướng về mô hình tố tụng
Mô hình TTHS nước ta thời gian qua đã phát huy tác dụng tích cực trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự an toàn xã hội và từng bước đáp ứng yêu cầu bảo đảm dân chủ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong điều kiện trình độ dân trí cũng như kinh tế còn thấp. Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực vẫn cho thấy sự mờ nhạt, thụ động của các chủ thể khác ngoài cơ quan tiến hành tố tụng (THTT) trong việc đi tìm sự thật của vụ án, mất cân bằng giữa các chủ thể trong quá trình xác định sự thật khách quan của vụ án. Hạn chế này cho thấy, chẳng những nó hạn chế khả năng xác định sự thật của vụ án mà còn ảnh hưởng tới các nguyên tắc khác của TTHS[3].
Duy trì mô hình TTHS hiện nay còn bảo đảm tính thống nhất của các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước xã hội chủ nghĩa trong việc tổ chức hệ thống các cơ quan THTT nói riêng cũng như hệ thống các cơ quan nhà nước khác và toàn bộ hệ thống chính trị trong xã hội ta và các điều kiện hiện đã có của Việt Nam về năng lực của đội ngũ trong các cơ quan THTT, điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị của các cơ quan THTT và trình độ pháp lý của xã hội ta cũng như sự hội nhập quốc tế để bảo đảm tính đồng bộ, hiện đại, dân chủ, công khai, minh bạch, liêm chính, tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Vì vậy, tiếp tục duy trì và phát huy những ưu điểm vốn có của mô hình TTHS thẩm vấn, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Khắc phục những hạn chế của mô hình tố tụng tranh tụng và mô hình tố tụng thẩm vấn như: Đẩy mạnh công cuộc phòng, chống tội phạm, khám phá vụ án tất yếu dẫn đến sự coi nhẹ các giá trị khác trong tố tụng, nổi bật nhất là tính công bằng của phiên tòa và các quyền con người của người bị buộc tội, bởi chức năng buộc tội, nên hồ sơ vụ án thường tập trung đến các chứng cứ buộc tội hơn là chứng cứ vô tội; trong quá trình điều tra còn nhiều hạn chế đã dẫn đến tình trạng bức cung, nhục hình ở một số nơi. Tiếp thu những yếu tố hợp lý của mô hình TTHS tranh tụng, như thủ tục tố tụng công bằng, quyền im lặng được tôn trọng tuyệt đối, thể hiện ở mức độ cao hơn sự tôn trọng quyền cơ bản của công dân, nâng cao vị thế vai trò người bào chữa trong tố tụng hình sự, thể hiện những đặc trưng quan trọng nhất trong ba yếu tố: Buộc tội - bào chữa - xét xử với ba nhóm chủ thể: (i) Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; (ii) Người bị buộc tội, người bào chữa; (iii) Tòa án.
3. Định hướng về các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự
Mục tiêu của chính sách pháp luật TTHS được cụ thể hóa thành những định hướng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự và được xác định thông qua những nguyên tắc cơ bản của TTHS trong quá trình xây dựng pháp luật TTHS. Chính sách pháp luật TTHS phải dựa vào và cụ thể hóa tư tưởng, đường lối mà trước hết là các nguyên tắc cơ bản với vai trò là sự trung chuyển chính sách pháp luật TTHS tới các quy phạm pháp luật điều chỉnh các lĩnh vực hoạt động của TTHS[4]. Các nguyên tắc cơ bản của Bộ luật Tố tụng hình sự chính là những quy luật khách quan có vai trò chủ đạo trong hoạt động tố tụng mà chúng ta phải tôn trọng và tuân thủ. Theo đó, cần tiếp tục lấy các nguyên tắc tranh tụng, nguyên tắc suy đoán vô tội làm hai nguyên tắc trụ cột của TTHS, nguyên tắc tranh tụng dẫn đến sự hình thành các bên trên cơ sở xác định vị trí của các lợi ích tố tụng, từ đó tạo nên sự bình đẳng của các bên trong vị trí tố tụng. Nguyên tắc suy đoán vô tội tạo cơ sở cho việc bảo vệ quyền con người, là lá chắn quan trọng để khắc phục tình trạng án oan, sai trong TTHS. Nghiên cứu để hoàn thiện hơn nữa chế định minh oan trong pháp luật TTHS tương lai với các quy phạm cụ thể và dứt khoát[5]. Bổ sung một số nguyên tắc cơ bản của luật TTHS như giải quyết khiếu nại, tố cáo… thể hiện tinh thần cải cách mạnh mẽ thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đảng công khai, minh bạch, chặt chẽ, chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính bảo đảm thuận tiện, sự tham gia và giám sát của nhân dân.
4. Định hướng về các chủ thể của tố tụng hình sự
Trong thời gian qua, tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân, hệ thống Tòa án chưa thực sự tổ chức theo thẩm quyền xét xử, hai cấp Tòa án vẫn gắn với đơn vị hành chính, Viện kiểm sát nhân dân và cơ quan điều tra chậm đổi mới[6]. Vì vậy, cần tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức tham gia vào quá trình tố tụng tư pháp[7]. Theo đó, xây dựng các cơ quan tiến hành tố tụng hiện đại, trong sạch, hiệu quả, dân chủ, nghiêm minh, tăng cường công tác thống nhất, đồng bộ, khả thi, ổn định. Tổ chức hệ thống luật sư và các chế định bổ trợ tư pháp theo hướng phát triển mãnh mẽ thị trường dịch vụ pháp lý, khoa học, hiện đại, hiệu quả, cụ thể như sau:
Đối với Tòa án: Trên sơ sở nội hàm của quyền tư pháp, tiến hành đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, tự do tranh luận, tự do trình bày quan điểm của các bên, Tòa án là chủ thể trung tâm của hoạt động xét xử. Xác định là khâu đột phá của chính sách pháp luật tố tụng hình sự trong thời gian tới.
Đối với Viện kiểm sát: Hiện nay, chưa có cơ chế kiểm tra từ bên ngoài đối với các hoạt động công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, hoạt động điều tra của cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Vì vậy, chính sách pháp luật TTHS theo hướng phân biệt giữa kiểm sát và công tố; tổ chức cơ quan thực hành quyền công tố và cơ quan thực hiện chức năng kiểm sát; phân định vai trò, quyền và trách nhiệm của cơ quan, người đứng đầu và người không giữ chức vụ quản lý hành chính nhà nước trong Viện kiểm sát, tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra, chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật tố tụng hình sự. Nâng cao năng lực điều tra của kiểm sát viên và Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Đối với Cơ quan điều tra: Hiện nay, cơ quan điều tra được tổ chức ở 3 bộ, ngành với 5 hệ thống[8]. Ngoài ra, còn có các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra[9]. Việc tổ chức cơ quan điều tra ở một số nơi chưa hợp lý, chưa tách bạch rõ nhiệm vụ phòng ngừa tội phạm và điều tra tố tụng, kết hợp giữa hoạt động trinh sát và điều tra tố tụng chưa đúng yêu cầu. Vì vậy, tiếp tục xác định rõ nhiệm vụ của cơ quan điều tra trong mối quan hệ với các cơ quan khác được giao một số hoạt động điều tra theo hướng cơ quan điều tra chuyên trách điều tra tất cả các vụ án hình sự, các cơ quan khác chỉ tiến hành một số hoạt động điều tra sơ bộ và tiến hành một số biện pháp điều tra theo yêu cầu của cơ quan điều tra chuyên trách. Cần tiếp tục nghiên cứu và chuẩn bị mọi điều kiện để tiến tới tổ chức lại các cơ quan điều tra theo hướng thu gọn đầu mối, kết hợp chặt chẽ giữa công tác trinh sát và hoạt động điều tra TTHS; tăng cường, nâng cao năng lực của Cơ quan điều tra hình sự.
Hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp: Hiện nay, hoạt động bổ trợ tư pháp còn nhiều khó khăn, vướng mắc. Cần tiếp tục thực hiện các đề án, chiến lược, văn bản quan trọng trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp như: Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020; Đề án đổi mới công tác trợ giúp lý giai đoạn 2015 - 2025; Chiến lược phát triển trợ giúp pháp lý Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030; Quy hoạch phát triển tổ chức hành nghề công chứng đến năm 2020; Đề án “đẩy mạnh xã hội hóa công tác phổ biến, giáo dục phát luật và trợ giúp pháp lý”; Đề án “đẩy mạnh xã hội hóa giám định tư pháp theo quy định của Luật Giám định tư pháp”… theo đó phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn. Hoàn thiện cơ chế bảo đảm để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa, đồng thời xác định rõ chế độ trách nhiệm đối với luật sư, tạo điều kiện về pháp lý để phát huy chế độ tự quản của tổ chức luật sư; đề cao trách nhiệm của các tổ chức luật sư đối với thành viên của mình.
Hoàn thiện chế định giám định tư pháp: Đầu tư cho một số lĩnh vực giám định để đáp ứng yêu cầu thường xuyên của hoạt động tố tụng. Thực hiện xã hội hóa đối với các lĩnh vực. Quy định chặt chẽ, rõ ràng về trình tự, thủ tục, thời hạn trưng cầu và thực hiện giám định. Xác định rõ cơ chế đánh giá kết luận giám định, bảo đảm đúng đắn, khách quan để làm căn cứ giải quyết vụ việc.
Xác định rõ phạm vi của công chứng và chứng thực, giá trị pháp lý của văn bản công chứng. Xây dựng mô hình quản lý nhà nước về công chứng theo hướng Nhà nước chỉ tổ chức cơ quan công chứng thích hợp, có bước đi phù hợp để từng bước xã hội hóa. Tiếp tục tổ chức thí điểm chế định thừa phát lại tại một số địa phương, trên cơ sở tổng kết, đánh giá thực tiễn sẽ có bước đi tiếp theo.
Đối với đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức trong hệ thống cơ quan tư pháp: Tập trung chính sách để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống cơ quan tư pháp có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và phát triển đất nước. Có cơ chế sàng lọc, thay thế kịp thời những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm pháp luật, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp, bị xử lý kỷ luật, không còn uy tín đối với nhân dân.
5. Về thủ tục tố tụng tư pháp
Hiện nay, cải cách hành chính trong các cơ quan tư pháp còn chậm, pháp luật về tố tụng tư pháp còn nhiều bất cập, chậm được sửa đổi, bổ sung, thiếu đồng bộ, khó thực hiện, chưa sát với thực tiễn. Yêu cầu đặt ra là hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, minh bạch, công khai và thuận lợi, chính sách pháp luật TTHS làm tiền đề cho cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng: Kết hợp chặt chẽ việc đổi mới thủ tục tố tụng tư pháp, cải cách thủ tục hành chính tư pháp phù hợp với hoạt động tư pháp. Hoàn thiện trình tự, thu thập tài liệu chứng cứ của người bào chữa. Hoàn thiện cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn, cải tiến các thủ tục tố tụng tại phiên tòa để bảo đảm tranh tụng dân chủ, bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bào chữa, lấy kết quả tranh tụng tại phiên tòa làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án. Hoàn thiện thủ tục khởi tố vụ án, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đối với pháp nhân thương mại phạm tội. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số trong thủ tục tố tụng tư pháp. Phát triển một số loại hình dịch vụ tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ. Xây dựng cơ chế phát huy sức mạnh của nhân dân, các tổ chức đoàn thể trong giám sát hoạt động tư pháp[10].
6. Về bào chữa trong tố tụng hình sự
Hiện nay, đang thiếu các cơ chế để người bào chữa thực hiện đầy đủ, có hiệu quả các quyền năng tố tụng đã được luật định và để người bào chữa bảo vệ quyền của mình trước sự vi phạm của các chủ thể khác, đặc biệt là sự vi phạm từ phía các cơ quan THTT, vai trò của người bào chữa trong giai đoạn điều tra, truy tố còn mờ nhạt. Người bào chữa chưa được bảo đảm các cơ hội để trở thành một bên bình đẳng với bên buộc tội trong việc thực hiện chức năng bào chữa của mình[11].
Chính sách pháp luật TTHS theo hướng tăng cường các cơ chế bảo đảm để người bào chữa thực hiện ngày càng tốt hơn chức năng bào chữa của mình, như: Phải bảo đảm để người bào chữa có mặt ngay trong buổi làm việc đầu tiên của cơ quan điều tra đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, người bị tạm giữ; quy định trình tự, thủ tục người bảo vệ quyền lợi ích pháp của người tham gia tố tụng khác. Tăng thẩm quyền mới cho người bào chữa, giá trị chứng minh của các tài liệu chứng cứ do người bào chữa thu thập được, đề cao vai trò của người bào chữa trong các giai đoạn tố tụng, đặc biệt là giai đoạn điều tra và truy tố.
7. Về giải quyết khiếu nại tố cáo trong tố tụng hình sự
Hiện nay, quy định về khiếu nại, tố cáo trong TTHS còn một số hạn chế như: Một số chủ thể trong TTHS không quy định được quyền khiếu nại trong khi tham gia tố tụng như người giám định, người phiên dịch; chưa có quy định cụ thể về chế tài xử lý đối với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo không đúng thời hạn quy định, không quy định về khiếu nại trực tiếp bằng miệng và phương thức giải quyết khiếu nại bằng miệng. Chưa phân biệt rõ hoặc quy định chi tiết về hành vi tố tụng, những chủ thể được quyền khiếu nại, tố cáo khó có thể nhận biết đâu là hành vi tố tụng để thực hiện quyền của mình[12]. Vì vậy, cần tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về đối tượng khiếu nại, tố cáo trong TTHS theo hướng: Cần phải quy định là nguyên tắc xuyên suốt về nội dung bất cứ hành vi tố tụng, quyết định tố tụng nào có căn cứ ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức đều bị khiếu nại mà không hạn chế bởi chỉ có cá nhân tham gia tố tụng. Mở rộng quyền được khiếu nại của một số người tham gia tố tụng, hoàn thiện các quy định pháp luật về trách nhiệm đối với chủ thể của khiếu nại, tố cáo; trách nhiệm của người bị khiếu nại, tố cáo; trách nhiệm của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo.
8. Về hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự
Tăng cường hợp tác quốc tế là một trong những nội dung lớn của cải cách tư pháp trong thời gian qua, theo đó rà soát một cách cơ bản và toàn diện các quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, trên cơ sở so sánh và đối chiếu các quy định về thủ tục TTHS và hợp tác quốc tế trong TTHS để nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật, góp phần nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong hoạt động TTHS. Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong công tác phòng, chống tội phạm, tổ chức thực hiện tốt các công ước quốc tế, hiệp định tương trợ tư pháp, hiệp định hợp tác phòng, chống tội phạm mà Nhà nước ta đã ký kết hoặc gia nhập. Tiếp tục nghiên cứu tham gia, ký kết các điều ước quốc tế khác liên quan đến công tác phòng, chống tội phạm.
Bổ sung các nguyên tắc hợp tác quốc tế trong TTHS: Xem xét, tiến hành hợp tác quốc tế trong TTHS theo nguyên tắc có đi có lại. Theo hướng này, các cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu để hướng dẫn quy định về nguyên tắc có đi có lại để bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật[13]. Hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền THTT và các điều kiện bảo đảm hiệu quả hợp tác quốc tế trong TTHS để nâng cao hiệu quả trong thực tiễn giải quyết vụ án có yếu tố nước ngoài, tạo điều kiện thuận lợi cho việc hợp tác quốc tế trong TTHS của các cơ quan có thẩm quyền, như: Thời hạn, thủ tục dẫn độ; thủ tục công nhận các quyết định của cơ quan có thẩm quyền nước yêu cầu dẫn độ, hỗ trợ tư pháp; thủ tục tiếp nhận yêu cầu truy cứu trách nhiệm hình sự là công dân Việt Nam của nước yêu cầu; cách xác định nơi cư trú cuối cùng trước khi ra nước ngoài của công dân Việt Nam; vấn đề chi phí thực hiện tương trợ tư pháp. Nghiên cứu hoàn thiện các quy định của pháp luật về hợp tác quốc tế đối với pháp nhân thương mại phạm tội./.
NCS Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
[3] TS. Đinh Thế Hưng, “Về tố tụng công bằng trong tố tụng hình sự Việt Nam”, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/ve-to-tung-cong-bang-trong-to-tung-hinh-su-viet-nam.[4] PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí “Giáo trình Các nguyên tắc cơ bản của Luật Tố tụng hình sự”, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2018, tr. 25.[5] TSKH. GS. Lê Văn Cảm “Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật hình sự”, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2019, tr.84.[6] Báo cáo tổng kết số 35-BC/CCTP ngày 12/3/2014 của Ban Cải cách tư pháp Trung ương về 8 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.[7] Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị, 2021, tập 1, tr. 178.
[8] Bộ Công an có hai hệ thống: (1) Cơ quan Cảnh sát điều tra được tổ chức ở 3 cấp: Bộ, tỉnh và huyện; (2) Cơ quan An ninh điều tra được tổ chức ở 2 cấp: Bộ và tỉnh; Bộ Quốc phòng có 2 hệ thống: (1) Cơ quan điều tra hình sự trong Quân đội được tổ chức ở 3 cấp: Bộ, quân khu và khu vực; (2) Cơ quan An ninh điều tra Quân đội được tổ chức theo 2 cấp: Bộ và quân khu; Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện kiểm sát quân sự trung ương có cơ quan điều tra.
[9] Bộ Công an và công an cấp tỉnh có một số Cục, Phòng Cảnh sát, An ninh, Giám thị trại giam và Trại tạm giam; Bộ Quốc phòng có Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển, Giám thị trại giam và Thủ trưởng đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương đương; Bộ Tài chính có lực lượng Hải quan; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có lực lượng Kiểm lâm.
[10] Báo cáo tổng kết số 35-BC/CCTP ngày 12/3/2014 của Ban Cải cách tư pháp Trung ương về 8 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
[11] TS. Lê Hữu Thể, ThS. Nguyễn Thị Thủy “Hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam theo yêu cầu cải cách tư pháp” (Nguồn: http://www.nclp.org.vn).
[12] Nguyễn Thị Hương, “Khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Trường Đại học giáo dục, 2009.
[13] GS. TS. Nguyễn Ngọc Anh, “Hoàn thiện chế định hợp tác quốc tế trong Tố tụng Hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” (https://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/79/224).