Thứ sáu 20/06/2025 07:45
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Cơ sở kinh tế - xã hội cho sự hình thành và phát triển của công lý

Công lý là một giá trị căn bản mà hệ thống tư pháp của mọi quốc gia đều hướng tới. Tại Việt Nam, với tư cách là một giá trị chính trị - tư pháp, công lý đã xuất hiện từ rất sớm, đồng hành và hỗ trợ đắc lực cho sự ra đời và phát triển của Nhà nước cách mạng nhân dân. Để tiếp tục củng cố niềm tin vững chắc của nhân dân vào đường lối, chính sách và sự lãnh đạo của Đảng

Công lý là một giá trị căn bản mà hệ thống tư pháp của mọi quốc gia đều hướng tới. Tại Việt Nam, với tư cách là một giá trị chính trị - tư pháp, công lý đã xuất hiện từ rất sớm, đồng hành và hỗ trợ đắc lực cho sự ra đời và phát triển của Nhà nước cách mạng nhân dân. Để tiếp tục củng cố niềm tin vững chắc của nhân dân vào đường lối, chính sách và sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, đặc biệt là trong lĩnh vực tư pháp, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã tiếp tục khẳng định những giá trị bền vững của công lý trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Để có một cái nhìn thấu đáo về bản chất của công lý, bài viết này sẽ tập trung làm rõ cơ sở kinh tế - xã hội cần và đủ cho sự xuất hiện, hình thành và phát triển của công lý với tư cách là một quan hệ xã hội cũng như những chuyển biến trong quan niệm về công lý trong nền văn minh nhân loại và tại Việt Nam.

1. Sự hình thành và phát triển công lý trong nền văn minh nhân loại

Lý luận hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, để có quan niệm đúng, có thực, khách quan về sự hình thành và vận động của một hiện tượng xã hội, cần phải quy mọi quan hệ xã hội về quan hệ sản xuất, quy quan hệ sản xuất vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Cách tiếp cận duy vật và biện chứng này khẳng định sản xuất vật chất là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội, lĩnh vực vật chất, kinh tế quyết định lĩnh vực tinh thần, chính trị và theo đó, những quan hệ tinh thần, pháp quyền chỉ có thể được giải thích từ những điều kiện sinh hoạt vật chất và bằng những mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất và những quan hệ sản xuất xã hội[1].

Cũng như những quan hệ xã hội khác, công lý là một giá trị xã hội mang tính giai cấp và tính lịch sử sâu sắc. Công lý chỉ xuất hiện, hình thành khi các yếu tố kinh tế - xã hội của xã hội loài người đã phát triển đến một trình độ nhất định. Và theo đó, quan niệm về công lý phụ thuộc chặt chẽ và do mỗi hình thái kinh tế - xã hội mà nó tồn tại chi phối, quyết định. Ngược lại, các giá trị của công lý cùng với các quan hệ sản xuất khác cũng có ảnh hưởng mạnh mẽ, sâu rộng đến các phương thức tổ chức xã hội, từ đó thúc đẩy hoặc cản trở, kìm hãm sự phát triển của xã hội trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Bên cạnh đó, trong mỗi giai đoạn, tùy thuộc vào yêu cầu cai trị, lãnh đạo, quản lý xã hội của giai cấp thống trị mà công lý sẽ có các nội dung, tính chất và phương thức vận hành khác nhau.

Lịch sử phát triển của xã hội loài người khi xuất hiện chế độ công xã nguyên thủy với đặc trưng về sự phát triển thấp kém, chậm chạp của điều kiện lao động kiếm sống. Trình độ kỹ thuật thấp kém, bấp bênh cùng với tình trạng hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên đã buộc con người phải toàn tâm, toàn ý liên kết, hợp tác với nhau trong lao động tập thể và trong đấu tranh sinh tồn. Chế độ sở hữu tập thể nguyên thủy đó hàm chứa những giá trị cốt lõi “sơ khai”, “chất phác” về công bằng và bình đẳng, mọi thành viên của cộng đồng xã hội chung sống như trong một “gia đình lớn”, hòa bình, hữu ái, tự giác tham gia, cùng làm, cùng hưởng như nhau, không tồn tại chiếm hữu tư nhân, không phân hóa giàu nghèo, giai cấp, không có xung đột, không tồn tại người bóc lột hay bộ máy chính quyền cai trị. Trong xã hội đó, con người còn “chưa phân biệt đâu là quyền lợi và đâu là nghĩa vụ” bởi tình trạng cộng đồng, cùng chung nhau, cùng giống nhau trong mọi mặt của đời sống[2]. Các nhà nghiên cứu cho rằng, trong giai đoạn này, bởi phương thức sản xuất còn thấp kém, xã hội chưa phát triển, các mâu thuẫn, xung đột xã hội chưa trở nên gay gắt, vì vậy, xã hội chưa hội đủ các yếu tố cho sự hình thành của công lý.

Khi xã hội loài người chuyển sang chế độ công xã thị tộc phụ hệ, cùng với sự xuất hiện của kim khí, lực lượng sản xuất đã phát triển vượt bậc, năng suất lao động, sản phẩm cho xã hội ngày càng tăng, tạo dư thừa và tích lũy xã hội. Với kinh nghiệm sản xuất và công lao đóng góp ngày càng lớn, người đàn ông bắt đầu bước lên nấc thang quyền lực trong gia đình và xã hội với nhiều quyền năng quan trọng, trong đó cần phải kể đến là quyền quyết định phân công lao động trong xã hội. Xã hội cũng xuất hiện một nhóm người tự cho mình có quyền chiếm một phần sản phẩm xã hội nhiều hơn người khác. Chế độ tư hữu và đặc biệt là sự xuất hiện của nền sản xuất cá thể đã góp phần quan trọng tạo sự phân hóa giàu nghèo, giai cấp và sự bất bình đẳng, xung đột trong xã hội. Các quan hệ xã hội không còn gắn kết như thời kỳ công xã nguyên thủy, từ đó đã tạo cơ sở, điều kiện kinh tế - xã hội cho sự xuất hiện công lý trong xã hội loài người.

Theo cách hiểu truyền thống, công lý là khái niệm chỉ áp dụng trong quá trình tương hỗ, khi hành động của một cá nhân này hướng tới người khác. Câu hỏi về công lý (justice) và bất công (injustice) chỉ xuất hiện khi có nhiều cá nhân và có những sự kiện thực tế liên quan đến quá trình tương tác với người khác. Các nhà nghiên cứu triết học luật pháp đã chứng minh rằng, về bản chất, công lý trước tiên là nghĩa vụ với người khác, vì vậy, quyền phải là yếu tố có trước, khi các quyền bị vi phạm thì công lý sẽ xuất hiện. Việc xuất hiện chế độ tư hữu cùng các quyền tư hữu chính là điều kiện kinh tế tiên quyết cho sự hình thành công lý. Thứ hai, công lý chỉ xuất hiện trong mối quan hệ giữa con người với một người khác mang tính tách biệt, xa lạ. Công lý không thể xuất hiện giữa những người chung sống cộng đồng, chung nhau, như nhau, như trong một gia đình chung của chế độ công xã nguyên thủy trước đó. Nền sản xuất cá thể phát triển, sự phân hóa, khác biệt, bất bình đẳng từ tình trạng tài sản cho đến địa vị xã hội ngày càng sâu sắc, sự gắn kết giữa các thành viên xã hội dần rời rạc chính là điều kiện, cơ sở xã hội cho sự xuất hiện và hình thành công lý. Như Plato nhận định, công lý chỉ áp dụng trong mối quan hệ giữa con người và đặc biệt là trong mối quan hệ giữa những người không có sự bình đẳng[3]. Theo hướng lập luận này thì trong quan hệ công lý, con người quan hệ với một người khác mang tính tách biệt, mà gần như phải là một người xa lạ. Quan hệ giữa người cha và người con là quan hệ không hoàn toàn tách biệt, người con còn phụ thuộc nhiều vào người cha và người cha với tình yêu thương bao la luôn coi người con như chính mình, vì vậy ở một nghĩa chính xác thì không thể có công lý giữa những người yêu thương nhau[4].

Sự xuất hiện của công lý thể hiện văn minh xã hội loài người đã phát triển sang một giai đoạn cao hơn. Trong giai đoạn xã hội sơ khai, bán khai trước đó, pháp luật dựa trên các giải pháp thô sơ là sử dụng “cường lực”, “bạo lực”, hay “bản năng”, công lý, lẽ phải sẽ thuộc về kẻ khỏe hơn, mạnh hơn. “Cá nhân là viên cảnh sát của chính mình, người nào đủ mạnh thì dùng cách trả thù để xử tội theo ý mình”. Cùng với sự tiến hóa của nhân loại, vai trò của “cường lực”, “bạo lực”, “sức mạnh” ngày càng phai nhạt, loài người nhận ra rằng không thể để cho các cá nhân tự ý định đoạt khu xử, trật tự xã hội cần phải được thiết lập trên cơ sở công lý[5].

Ý niệm về công lý, khát vọng về công lý sẽ chỉ xuất hiện và trở nên mạnh mẽ như một nhu cầu tự thân khi xã hội đã phát triển đến trạng thái có xung đột và mâu thuẫn về quyền và lợi ích giữa các thành viên trong xã hội. Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng, khi xã hội tồn tại trong trạng thái mà người dân sống thưa thớt và chiến tranh luôn rình rập, công lý còn chưa được coi là một phẩm hạnh quan trọng của mỗi cá nhân bởi nó còn phải nhường chỗ cho những phẩm chất quan trọng của các chiến binh như sức mạnh, lòng quả cảm, sự khéo léo hay kỹ năng sử dụng vũ khí thuần thục. Phải cho đến khi chế độ thành bang được thiết lập, xã hội cổ đại có nhiều bước chuyển mình mạnh mẽ, các cá nhân phải gắn bó, liên kết, hợp tác, bảo vệ lẫn nhau, không được có những hành vi làm phương hại lẫn nhau để cùng tồn tại và phát triển thì những yêu cầu của hình thái kinh tế - xã hội đó đã làm phai nhạt những phẩm hạnh của các chiến binh và đưa công lý tiến tới vị trí trung tâm của hệ giá trị đạo đức của xã hội loài người[6].

2. Sự hình thành và phát triển của công lý trong xã hội Việt Nam

Trong giai đoạn đầu của xã hội Việt Nam, khi các cơ quan công quyền chưa được tổ chức để xét xử các vụ tranh chấp giữa các cá nhân với nhau thì quan niệm về công lý với ý nghĩa là “phục cừu” là một cơ chế nổi trội. Theo cơ chế này, mỗi khi quyền lợi của một người bị xâm phạm, người đó sẽ tự động phản ứng để trả thù kẻ đã gây ra thiệt hại cho họ. Sự trả thù đó nhiều khi còn được thực hiện dưới hình thức đoạt lại tài sản hoặc bắt cả đối phương và thân nhân của họ làm nô lệ. Truyện cổ tích là một ví dụ điển hình về quan niệm của nhân dân ta về công lý “phục cừu” giai đoạn này. Trong truyện Cây khế, người anh bị ngã xuống biển chết, trong truyện Thạch Sanh, Lý Thông bị sét đánh chết, và đặc biệt, trong câu truyện Tấm Cám, Cám bị dội nước sôi chết. Công lý báo thù, “dĩ oán báo oán”, “răng đền răng, mắt đền mắt” là một hiện tượng, dấu tích xã hội với bối cảnh là quá trình tan rã của chế độ công xã nguyên thủy. Với quan niệm về công lý, lẽ phải như vậy, một kết thúc quen thuộc của truyện cổ tích như trong truyện Tấm Cám là việc cô Tấm giết cô Cám, làm mắm gửi cho mụ dì ghẻ vẫn tồn tại qua các thời đại, được tiếp nhận một cách bình thường, trong thực tế không hề mang lại cảm giác ghê sợ hay không đồng tình với cô Tấm. Khi cái ác phải đền tội, đứa trẻ nào cũng thấy hả hê và tin tưởng vào công lý và sự công bằng mà thế giới “ngày xửa ngày xưa” mở ra trước mắt chúng[7].

Khi xã hội phát triển ở một bước cao hơn, các cơ quan công quyền đã được tổ chức vững chắc và bình ổn để giải quyết các việc tranh chấp thì chế độ “thục kim” từng bước chiếm ưu thế. Khi một người gây thiệt hại cho người khác, thì sự can thiệp đầu tiên của cơ quan công quyền là buộc hai bên đương sự không được tự ý báo thù như trong chế độ phục cừu mà phải giải quyết tranh chấp xảy ra bằng cách trả cho nhau một số tiền chuộc lỗi theo một giá ngạch do pháp luật quy định. Tiền thục kim (tiền chuộc) có thể coi như vừa có tính chất là một hình phạt, vừa có tính chất là sự bồi thường. Pháp luật nhà Lý, nền pháp luật thống nhất, thành văn đầu tiên của dân tộc ta đã quy định nghiêm, phạt kẻ nào ỷ sức mạnh để giải quyết việc tương tranh về đất cát. Hình phạt cho hành vi này là ngoài tội về mặt hình, còn mất cả ruộng đất tương tranh để đền cho kẻ bị thương hay thiệt hại. Nhà Lý cũng đã rất quan tâm đến công lý thủ tục thông qua việc ban hành nhiều quy định khá rõ và khả dĩ làm cho việc giải quyết các vụ tranh tụng được nhanh chóng và rõ ràng. Lịch triều hiến chương loại chí còn ghi lại năm thứ 06 đời vua Anh Tông (năm 1.139), nhà vua xuống chiếu quy định những kẻ tranh nhau ruộng ao, của cải gì thì không được nhờ những người có quyền thế giúp sức, nếu trái lệnh thì phải tội 80 trượng và kết tội đồ.

Một đặc điểm nổi bật của nền văn hóa đất nước ta là truyền thống đoàn kết và muốn đoàn kết được thì phải lấy hòa mục làm trọng. Yếu tố truyền thống đoàn kết cộng đồng đã ảnh hưởng sâu sắc đến quan niệm về công lý, lẽ công bằng trong văn hóa Việt Nam. Điều 585 Bộ luật Hồng Đức quy định: “Nếu trâu bò hai nhà đánh nhau, con nào chết thì hai nhà cùng hưởng, con nào sống thì hai nhà cùng cày, trái luật phải phạt 80 trượng”. Có thể nói, trong chế định này, các nhà làm luật đã vận dụng sáng tạo tinh thần tương thân, tương ái trong khung cảnh của nền kinh tế nông nghiệp đương thời để tìm ra một giải pháp công bằng điều chỉnh các quan hệ xã hội, giữ gìn và phát huy yếu tố tích cực của truyền thống dân tộc.

Trong giai đoạn tiếp theo, quan niệm về công lý tiếp tục có những bước phát triển mạnh mẽ và được cụ thể hóa bằng những cơ chế mới. Trước tiên, đó là sự can thiệp mạnh mẽ hơn của cơ quan công quyền thông qua việc quy định các chế tài về hình sự để trừng phạt kẻ nào đã xâm phạm vào tài sản hay nhân thân của người khác. Ngoài hình phạt, phạm nhân còn phải bồi thường cho nạn nhân về thiệt hại do mình gây ra. Vì tiền bồi thường cũng coi là một hình phạt nên số tiền này thường được ấn định gấp đôi hay gấp ba, bốn lần số thiệt hại. Trong chế độ phong kiến Việt Nam, chế độ trách nhiệm dân sự cũng đã bước đầu manh nha hình thành, có sự phân biệt với trách nhiệm hình sự. Điều 581 Bộ luật Hồng Đức quy định nếu trâu, ngựa chạy lồng lên, không kìm hãm được, thì được miễn tội và chỉ phải đền sự thiệt hại. Tương tự, Điều 91 Hoàng Việt luật lệ quy định trường hợp khi hủy hay phá hoại các đồ vật, mùa màng, cây cối thuộc sở hữu của người khác và sự hủy hoại là vô ý hay sơ ý gây nên, thì người gây thiệt hại chỉ phải bồi thường mà không phải tội. Có thể nói, từ chế độ tự trừng phạt đối phương để bảo vệ lợi ích khi bị xâm phạm tiến đến chế độ trách nhiệm hình sự, dân sự là một quá trình phát triển lâu dài và vô cùng quan trọng về quan niệm công lý trong lịch sử văn minh của đất nước ta[8].

Nguyễn Xuân Tùng

Tài liệu tham khảo

[1]. GS.TS. Hoàng Chí Bảo (Chủ biên), Bản chất khoa học và cách mạng của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia năm 2010.

[2] Lương Ninh (Chủ biên), Lịch sử thế giới cổ đại, Nxb. Giáo dục Việt Nam, năm 2013.

[3] Lương Ninh (Chủ biên), Lịch sử thế giới cổ đại, Nxb. Giáo dục Việt Nam, năm 2013.

[4] Rescoe Pound, Justice according to Law (Công lý dựa trên nền tảng pháp luật), Nxb. Yale University Press, năm 1951.

[5] Vũ Văn Mẫu, Dân luật khái luận, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, năm 1961.

[6] David Johnston, A brief history of Justice (Tóm lược lịch sử về công lý), Wiley-Blackwell, năm 2011.

[7] PGS.TS. Vũ Anh Tuấn (chủ biên), Giáo trình văn học dân gian, Nxb. Giáo dục Việt Nam, năm 2012.

[8] Bộ Tư pháp, Nghiên cứu một số di sản pháp luật dân sự từ thế kỷ XV đến thời Pháp thuộc (Đề tài nghiên cứu cấp Bộ), năm 1996.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Khi thực hiện sắp xếp các đơn vị hành chính và thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp, việc đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động của chính quyền địa phương nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, thích ứng với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới là điều cần thiết. Các địa phương sau sắp xếp đứng trước những yêu cầu cấp thiết về đổi mới, vận hành hiệu quả mô hình tổ chức chính quyền địa phương. Bài viết đề xuất một số kiến nghị để tiếp tục đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động chính quyền địa phương, góp phần bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của nền công vụ trong bối cảnh mới.
Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 194/2025/QH15 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo cơ sở pháp lý thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Bài viết nghiên cứu, phân tích về những nội dung cần bổ sung vào chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để thực hiện việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đang lấy ý kiến nhân dân để thực hiện các chủ trương của Đảng về việc sắp xếp lại chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, không tổ chức cấp huyện. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi bộ máy hành chính phải được tổ chức khoa học, tinh, gọn, minh bạch, hiệu quả nhằm tạo đà cho đất nước phát triển càng trở lên cấp thiết. Xuất phát từ thực trạng tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã và đòi hỏi của thực tiễn, bài viết đề xuất một số gợi mở về đổi mới tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã trong thời gian tới.
Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội như hiện nay, việc tổ chức lại bộ máy chính quyền theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (dự thảo Nghị quyết) là yêu cầu tất yếu. Điều này đòi hỏi phải cải cách toàn diện cả về cấu trúc chiều ngang (sáp nhập địa giới hành chính) và chiều dọc (rút gọn cấp chính quyền trung gian) nhằm mở rộng không gian phát triển, tăng cường tính liên kết giữa trung ương và cơ sở, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân. Bài viết nghiên cứu mô hình tổ chức chính quyền địa phương gắn với địa bàn cụ thể dưới góc nhìn từ cơ sở (Tây Nguyên) để đưa ra những phân tích, nhận định và đề xuất giải pháp cho việc cải cách chính quyền địa phương theo dự thảo Nghị quyết.
So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

Bài viết phân tích, nghiên cứu thiết chế chính quyền địa phương ở Cộng hòa Pháp và Việt Nam; so sánh một số điểm tương đồng, khác biệt về tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương theo hiến pháp của hai nước. Trên cơ sở mô hình tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương của Cộng hòa Pháp, bài viết đề xuất một số kiến nghị để Việt Nam nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cuộc “cách mạng” về tinh gọn bộ máy theo các chủ trương, chính sách của Đảng và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.
Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử. Trên cơ sở nhận diện những khó khăn, vướng mắc, bài viết đề xuất các khuyến nghị để xây dựng khung pháp lý toàn diện, hiệu quả hơn trong việc tích hợp trí tuệ nhân tạo vào công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời gian tới.

Trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bài viết phân tích, đánh giá một số khía cạnh pháp lý, kinh tế của chế độ trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện về chế độ trách nhiệm hữu hạn trong pháp luật doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam.

Hoàn thiện quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dùng vào việc thờ cúng

Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng qua các thời kỳ và thực tiễn áp dụng pháp luật qua công tác xét xử của Tòa án đối với tranh chấp liên quan đến chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng, từ đó, đưa ra một số gợi mở nhằm hoàn thiện chế định này.
Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Sau hơn 11 năm triển khai thi hành, Hiến pháp năm 2013 đã tạo cơ sở hiến định quan trọng cho việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Bên cạnh những kết quả đạt được, hiện nay, việc thực hiện các quy định của Hiến pháp và pháp luật liên quan đến Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và chính quyền địa phương vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện nhằm để đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Ủy ban Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 ban hành Kế hoạch tổ chức lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Việc lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết nhằm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, huy động trí tuệ, tâm huyết và tạo sự đồng thuận, thống nhất cao của toàn dân trong việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013, bảo đảm Hiến pháp phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của Nhân dân.
Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013 là một sự kiện chính trị và pháp lý trọng đại, dù ở phạm vi, quy mô nào cũng là một công việc rất hệ trọng, thiêng liêng. Do vậy, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp phải được tiến hành thận trọng, khách quan, dân chủ, khoa học, hiệu quả với sự tham gia tích cực, đồng bộ của các cơ quan, tổ chức, các chuyên gia, nhà khoa học và toàn thể Nhân dân theo đúng chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính  – bổ sung nhiều quy định mới

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính – bổ sung nhiều quy định mới

Trên cơ sở phát biểu đề dẫn của đồng chí Trương Thế Côn, Tổng Biên tập Tạp chí Dân chủ và pháp luật, phát biểu của đồng chí Hồ Quang Huy, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính về sự cần thiết, quá trình soạn thảo và định hướng xây dựng Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm pháp luật hành chính, Hội thảo khoa học “Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi pham hành chính” đã tiếp nhận được gần 20 ý kiến phát biểu và hơn 10 bài nghiên cứu chuyên sâu. Các bài viết và ý kiến phát biểu tại Hội thảo sẽ được Tạp chí Dân chủ và Pháp luật và Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính tổng hợp, xem xét để gửi tới cá nhân, cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong quá trình xây dựng, quyết định chính sách.
Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp.
Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp  nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV khai mạc sáng ngày 05/5/2025. Đây là Kỳ họp có nhiều nội dung quan trọng, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII - Hội nghị lịch sử, bàn về những quyết sách lịch sử trong giai đoạn Cách mạng mới của nước ta, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm