Thứ bảy 21/06/2025 12:37
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Công ty luật hợp danh - Nhận diện và những yếu tố tác động

Công ty luật hợp danh là một trong các tổ chức hành nghề luật sư. Công ty luật hợp danh (LHD) góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, đẩy mạnh hiệu quả thị trường và tăng cường niềm tin cho các nhà đầu tư. Bài viết đề cập một số vấn đề cơ bản về nhận diện công ty luật hợp danh và các yếu tố tác động đến sự tồn tại và phát triển bền vững của công ty trong nền kinh tế thị trường.


1. Nhận diện công ty luật hợp danh

Theo quy định của Luật Luật sư năm 2006 thì công ty luật hợp danh (LHD) là một trong các tổ chức hành nghề luật sư. Công ty luật hợp danh do ít nhất hai luật sư thành lập và không có thành viên góp vốn[1]. Công ty luật hợp danh có những điểm đặc thù cơ bản sau đây:

Thứ nhất, công ty luật hợp danh có tư cách pháp nhân. Công ty LHD là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh, được đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp ở địa phương nơi có Đoàn luật sư mà Trưởng văn phòng luật sư hoặc Giám đốc công ty luật là thành viên. Công ty LHD do luật sư ở các Đoàn luật sư khác nhau cùng tham gia thành lập thì đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp ở địa phương nơi có trụ sở của công ty[2]. Có thể nhận thấy, việc đăng ký hoạt động của công ty LHD khác việc đăng ký thành lập đối với các công ty thương mại thông thường. Các công ty này phải thực hiện việc đăng ký thành lập tại Phòng Đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư cấp tỉnh. Theo số liệu mới nhất từ bài viết của ThS. Trần Minh Sơn trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tư pháp, tính đến ngày 31/3/2015, Việt Nam có 63 Đoàn Luật sư, 9.436 luật sư, trong đó có 3.500 luật sư tập sự (TP. Hà Nội có 2.476 luật sư; TP. Hồ Chí Minh có 3.756 luật sư).

Thứ hai, thành viên công ty LHD phải là luật sư. Luật sư phải đáp ứng các điều quy định về năng lực hành vi dân sự, về trình độ năng lực, phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp... Người muốn trở thành luật sư phải là những người có bằng cử nhân luật, đáp ứng các điều kiện về sức khỏe, năng lực, phẩm chất theo quy định của pháp luật. Họ cần phải trải qua thời gian đào tạo nghiệp vụ luật sư với thời gian 12 tháng[3]. Tuy nhiên, điều kiện để trở thành luật sư theo quy định của pháp luật Việt Nam có những điểm khác so với quy định của một số quốc gia khác. Theo quy định của Nhật Bản, người muốn trở thành luật sư trước hết phải tham gia kỳ thi quốc gia. Kỳ thi này được mở cho bất kỳ ai không kể là người tốt nghiệp đại học luật hay chưa có bằng đại học luật, không yêu cầu phải có quốc tịch Nhật Bản, không có bất kỳ một giới hạn nào về bằng cấp, độ tuổi hay giới tính. Tuy nhiên, đây là một kỳ được đánh giá là khó nhất trong các kỳ thi của Nhật Bản và tỷ lệ đỗ rất thấp, nên trên thực tế, phần lớn các thí sinh là cử nhân luật.

Công ty LHD do ít nhất hai luật sư thành lập và không có thành viên góp vốn. Quy định này cũng là một điểm khác so với thành viên công ty hợp danh thông thường. Công ty hợp danh thông thường ngoài thành viên hợp danh, công ty có thể có thành viên góp vốn[4]. Đối với Văn phòng luật sư thì Trưởng Văn phòng là người đại diện và là người chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của Văn phòng luật sư. Các thành viên hợp danh (luật sư) đều có quyền đại diện cho công ty trước pháp luật. Các luật sư thành viên hợp danh trong công ty LHD có thể thống nhất phân công nhau đảm nhiệm các chức danh quản lý và kiểm soát công ty trong điều hành hoạt động kinh doanh của công ty. Ví dụ, một luật sư là thành viên công ty LHD ký hợp đồng dịch vụ pháp lý cho khách hàng, trong quá trình thực hiện các cam kết trong hợp đồng phía luật sư thực hiện không đúng cam kết, khách hàng khởi kiện đối với công ty (bị đơn).

Thứ ba, về trách nhiệm. Công ty hợp danh thông thường được áp dụng chế độ trách nhiệm hữu hạn đối với các khoản nợ và nghĩa vụ tài chính của công ty, thành viên hợp danh chịu trách nhiệm vô hạn và thành viên góp vốn chịu trách nhiệm hữu hạn. Công ty LHD là một công ty hợp danh đặc thù, do đó, các luật sư là thành viên hợp danh sẽ chịu chế độ trách nhiệm vô hạn.

2. Những yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động của công ty luật hợp danh

Thực tế cho thấy có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quá trình vận hành công ty LHD. Có những yếu tố bên trong và có yếu tố bên ngoài, có yếu tố ảnh hưởng trực tiếp và có yếu tố ảnh hưởng gián tiếp. Cụ thể:

Một là, Điều lệ công ty. Trong các văn kiện cấu thành công ty thì bản điều lệ đóng vai trò rất quan trọng khi công ty hoạt động. Điều lệ công ty được coi là một trong những “cốt lõi” làm nên sự thành công của công ty và được hình thành trên nền tảng của sự đồng thuận hay cam kết của các luật sư. Thực tế cho thấy, do hệ thống pháp luật chưa thực sự minh bạch, rõ ràng, vì vậy các vấn đề về tổ chức, điều hành, quyền và nghĩa vụ của các thành viên... càng cần thiết trong Điều lệ công ty. Về nguyên tắc, Điều lệ công ty không được trái với các quy định của pháp luật, nhưng điều đó cũng không hoàn toàn đồng nghĩa với việc Điều lệ công ty chỉ là một bản sao chép những điều luật. Điều lệ công ty quy định rõ quy chế tổ chức, quản lý công ty, thể hiện sự đồng thuận của luật sư là thành viên hợp danh, vì vậy, Điều lệ công ty có tính chất bắt buộc thi hành với công ty và các thành viên của nó. Điều lệ công ty không chỉ điều chỉnh các quan hệ nội bộ giữa các thành viên trong công ty với nhau, thành viên công ty với công ty, mà còn điều chỉnh mối quan hệ đối ngoại của công ty với những người liên quan. Do đó, Điều lệ công ty tốt cũng là nhân tố khẳng định trình độ quản lý, khả năng phát triển công ty.

Hai là, cơ chế phân chia quyền lực trong công ty. Cơ cấu tổ chức, điều hành, cơ chế quản lý công ty LHD dựa trên nền tảng mà ở đó chịu sự chi phối của những yếu tố khác nhau. Trong cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý công ty LHD không có sự phân chia quyền lực rõ ràng giữa các thành viên. Sự phân chia quyền lực này không chỉ phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn của thành viên, mà còn được xây dựng trên cơ sở tư cách pháp lý của thành viên. Đây là một điểm khác biệt về phân chia quyền lực của công ty LHD với các loại hình công ty khác. Ở mô hình công ty LHD thì quyền đại diện cho công ty thuộc về tất cả các thành viên hợp danh (luật sư). Các thành viên hợp danh thống nhất lựa chọn người đại diện cho công ty trong số các thành viên hợp danh của công ty. Việc thiết lập quyền bình đẳng giữa các thành viên hợp danh được ghi nhận mà không phụ thuộc vào tỷ lệ chiếm hữu vốn trong công ty nhiều hay ít. Và đương nhiên, ở công ty LHD, người đại diện là thành viên công ty và phải là luật sư. Cơ sở để minh chứng người đại diện cho công ty LHD được ghi nhận bằng các cơ sở pháp lý: (i) Ghi nhận tại hợp đồng thành lập công ty; (ii) Ghi nhận trong Điều lệ công ty; (iii) Ghi nhận trong Giấy đăng ký hoạt động. Công ty luật hợp danh được điều chỉnh bằng các thiết chế pháp luật chung đối với doanh nghiệp, đồng thời nó được điều chỉnh bởi các thiết chế pháp luật chuyên ngành phù hợp với lĩnh vực ngành nghề, phong tục, tập quán, quy ước và đạo đức nghề nghiệp của luật sư. Điều đó không chỉ tạo nên sự khác biệt trong việc phân chia quyền lực trong công ty so với các loại hình công ty khác, mà nó còn góp phần thể hiện tính chuyên nghiệp và bền vững trong quản trị công ty luật.

Ba là, cơ cấu thành viên của công ty. Công ty thông thường có thể/và không chỉ gồm một loại thành viên. Việc phân loại thành viên công ty căn cứ theo những tiêu chí khác nhau như: Nguồn vốn đầu tư, tư cách pháp lý hay mức độ và tỷ lệ chiếm giữ vốn góp trong công ty. Mỗi loại thành viên có một địa vị pháp lý khác nhau trong quá trình thành lập, tồn tại và phát triển của công ty. Khác với những công ty thông thường, thành viên công ty LHD phải là các luật sư5, không có thành viên góp vốn. Việc quy định như vậy mang tính đặc thù đối với các tổ chức hành nghề luật sư, trong đó có công ty LHD. Đồng thời cũng đảm bảo tính liên đới trách nhiệm của các luật sư là thành viên công ty. Đối với công ty LHD thì tính chất đồng chủ sở hữu trong công ty tạo nên “xương sống” quyết định việc chia sẻ quyền lực trong công ty cũng như tạo ra các dòng “huyết mạch” nuôi sống và làm bền vững hoạt động công ty.

Bốn là, trình độ, năng lực lãnh đạo và đạo đức nghề nghiệp của luật sư - thành viên công ty. Luật sư khi hành nghề trong công ty LHD không chỉ là những nhà đầu tư thuần túy, mà họ còn là những luật sư có thể cung cấp các sản phẩm dịch vụ pháp lý cao mang tính chuyên môn và chuyên nghiệp hóa cho khách hàng. Trình độ, năng lực của luật sư góp phần rất lớn trong tổ chức, điều hành công ty luật. Sự hướng tới chuyên môn hóa và chuyên nghiệp hóa của luật sư là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, với góc nhìn nghề luật là một nghề đặc biệt thì trình độ, năng lực của luật sư không chỉ chịu sự điều chỉnh của các thiết chế pháp luật với tư cách là một nhà kinh doanh mà hơn nữa trách nhiệm của họ phải luôn đi cùng với đạo đức nghề nghiệp - nghề luật. Đây vừa là một đòi hỏi và cũng là một vinh dự cho những người hành nghề luật - một nghề đặc biệt trong đời sống xã hội và đời sống pháp lý. Trách nhiệm đó đòi hỏi ở các luật sư không chỉ trình độ, năng lực mà còn cần sự cẩn trọng, trung thành và mẫn cán của luật sư đối với cộng đồng vì công lý và mang tính nhân văn cao cả.

3. Kết luận

Nghề luật sư là một nghề mang tính tự do, dựa trên sự hiểu biết pháp luật và áp dụng pháp luật, mà chức năng cơ bản là phụng sự công lý và mục đích cao cả của hoạt động tư pháp. Hoạt động của luật sư thông qua các tổ chức hành nghề luật sư. Công ty LHD là loại hình công ty với nhiều tính đặc thù từ thành viên, cơ cấu tổ chức, quản lý đến việc phân chia quyền lực, quyền quản lý công ty được giao cho các luật sư. Công ty LHD gia nhập, hoạt động và rút lui khỏi thị trường do tác động của nhiều yếu tố khác nhau, có yếu tố mang tính chủ quan và có yếu tố mang tính khác quan. Điều đó cho thấy, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, việc nhận diện công ty LHD cần xác định trên cơ sở nguồn gốc, nền tảng kinh tế và pháp lý của loại hình công ty này.

TS. Nguyễn Quý Trọng, Đại học Luật Hà Nội

LS. Nguyễn Minh Đức,
Đoàn Luật sư TP. Hồ Chí Minh

Tài liệu tham khảo:

[1]. Khoản 2 Điều 34 Luật Luật sư năm 2006

[2]. Khoản 1 Điều 35 Luật Luật sư năm 2006.

[3]. Theo quy định của Luật Luật sư năm 2012 thì việc đào tạo tại Liên đoàn luật sư Việt Nam.

[4]. Điều 172 Luật Doanh nghiệp năm 2014.

[5]. Điều 34 Luật luật sư năm 2006.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Khi thực hiện sắp xếp các đơn vị hành chính và thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp, việc đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động của chính quyền địa phương nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, thích ứng với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới là điều cần thiết. Các địa phương sau sắp xếp đứng trước những yêu cầu cấp thiết về đổi mới, vận hành hiệu quả mô hình tổ chức chính quyền địa phương. Bài viết đề xuất một số kiến nghị để tiếp tục đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động chính quyền địa phương, góp phần bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của nền công vụ trong bối cảnh mới.
Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 194/2025/QH15 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo cơ sở pháp lý thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Bài viết nghiên cứu, phân tích về những nội dung cần bổ sung vào chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để thực hiện việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đang lấy ý kiến nhân dân để thực hiện các chủ trương của Đảng về việc sắp xếp lại chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, không tổ chức cấp huyện. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi bộ máy hành chính phải được tổ chức khoa học, tinh, gọn, minh bạch, hiệu quả nhằm tạo đà cho đất nước phát triển càng trở lên cấp thiết. Xuất phát từ thực trạng tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã và đòi hỏi của thực tiễn, bài viết đề xuất một số gợi mở về đổi mới tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã trong thời gian tới.
Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội như hiện nay, việc tổ chức lại bộ máy chính quyền theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (dự thảo Nghị quyết) là yêu cầu tất yếu. Điều này đòi hỏi phải cải cách toàn diện cả về cấu trúc chiều ngang (sáp nhập địa giới hành chính) và chiều dọc (rút gọn cấp chính quyền trung gian) nhằm mở rộng không gian phát triển, tăng cường tính liên kết giữa trung ương và cơ sở, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân. Bài viết nghiên cứu mô hình tổ chức chính quyền địa phương gắn với địa bàn cụ thể dưới góc nhìn từ cơ sở (Tây Nguyên) để đưa ra những phân tích, nhận định và đề xuất giải pháp cho việc cải cách chính quyền địa phương theo dự thảo Nghị quyết.
So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

Bài viết phân tích, nghiên cứu thiết chế chính quyền địa phương ở Cộng hòa Pháp và Việt Nam; so sánh một số điểm tương đồng, khác biệt về tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương theo hiến pháp của hai nước. Trên cơ sở mô hình tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương của Cộng hòa Pháp, bài viết đề xuất một số kiến nghị để Việt Nam nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cuộc “cách mạng” về tinh gọn bộ máy theo các chủ trương, chính sách của Đảng và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.
Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử. Trên cơ sở nhận diện những khó khăn, vướng mắc, bài viết đề xuất các khuyến nghị để xây dựng khung pháp lý toàn diện, hiệu quả hơn trong việc tích hợp trí tuệ nhân tạo vào công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời gian tới.

Trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bài viết phân tích, đánh giá một số khía cạnh pháp lý, kinh tế của chế độ trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện về chế độ trách nhiệm hữu hạn trong pháp luật doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam.

Hoàn thiện quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dùng vào việc thờ cúng

Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng qua các thời kỳ và thực tiễn áp dụng pháp luật qua công tác xét xử của Tòa án đối với tranh chấp liên quan đến chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng, từ đó, đưa ra một số gợi mở nhằm hoàn thiện chế định này.
Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Sau hơn 11 năm triển khai thi hành, Hiến pháp năm 2013 đã tạo cơ sở hiến định quan trọng cho việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Bên cạnh những kết quả đạt được, hiện nay, việc thực hiện các quy định của Hiến pháp và pháp luật liên quan đến Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và chính quyền địa phương vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện nhằm để đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Ủy ban Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 ban hành Kế hoạch tổ chức lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Việc lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết nhằm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, huy động trí tuệ, tâm huyết và tạo sự đồng thuận, thống nhất cao của toàn dân trong việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013, bảo đảm Hiến pháp phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của Nhân dân.
Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013 là một sự kiện chính trị và pháp lý trọng đại, dù ở phạm vi, quy mô nào cũng là một công việc rất hệ trọng, thiêng liêng. Do vậy, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp phải được tiến hành thận trọng, khách quan, dân chủ, khoa học, hiệu quả với sự tham gia tích cực, đồng bộ của các cơ quan, tổ chức, các chuyên gia, nhà khoa học và toàn thể Nhân dân theo đúng chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính  – bổ sung nhiều quy định mới

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính – bổ sung nhiều quy định mới

Trên cơ sở phát biểu đề dẫn của đồng chí Trương Thế Côn, Tổng Biên tập Tạp chí Dân chủ và pháp luật, phát biểu của đồng chí Hồ Quang Huy, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính về sự cần thiết, quá trình soạn thảo và định hướng xây dựng Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm pháp luật hành chính, Hội thảo khoa học “Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi pham hành chính” đã tiếp nhận được gần 20 ý kiến phát biểu và hơn 10 bài nghiên cứu chuyên sâu. Các bài viết và ý kiến phát biểu tại Hội thảo sẽ được Tạp chí Dân chủ và Pháp luật và Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính tổng hợp, xem xét để gửi tới cá nhân, cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong quá trình xây dựng, quyết định chính sách.
Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp.
Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp  nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV khai mạc sáng ngày 05/5/2025. Đây là Kỳ họp có nhiều nội dung quan trọng, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII - Hội nghị lịch sử, bàn về những quyết sách lịch sử trong giai đoạn Cách mạng mới của nước ta, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm