Chủ nhật 22/06/2025 21:29
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Hoàn thiện Luật Tố cáo năm 2018 về tố cáo và bảo vệ người tố cáo

Các quy định về tố cáo và bảo vệ người tố cáo trong Luật Tố cáo năm 2018 đã có một bước phát triển rất lớn so với các quy định trước đó của Luật Tố cáo năm 2011. Tuy nhiên, khi triển khai thực hiện các quy định này trên thực tế đã phát sinh những bất cập, hạn chế dẫn đến hạn chế quyền tố cáo của mọi người. Hoàn thiện các quy định này sẽ góp phần bảo đảm thực hiện quyền tố cáo của mọi người và là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc tạo niềm tin và bảo đảm chắc chắn để người tố cáo yên tâm thực hiện quyền tố cáo của mình, góp phần đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật, nhất là đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội hội chủ nghĩa.


1. Về khái niệm tố cáo

Khoản 1 Điều 2 Luật Tố cáo năm 2018 quy định: “Tố cáo là việc cá nhân theo thủ tục quy định của Luật này báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, bao gồm: a) Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ; b) Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực”. Như vậy, so với Luật Tố cáo năm 2011 thì Luật Tố cáo năm 2018 đã mở rộng chủ thể có quyền tố cáo không chỉ là “công dân Việt Nam”[1] mà là “mọi người”. Khái niệm “mọi người” rộng hơn khái niệm “công dân Việt Nam”, bởi khái niệm “mọi người” bao gồm cả công dân Việt Nam, người nước ngoài và người không quốc tịch. Sở dĩ Luật Tố cáo năm 2018 mở rộng phạm vi chủ thể thực hiện quyền tố cáo là nhằm thể chế hóa nội dung, tinh thần của Hiến pháp năm 2013. Khoản 1 Điều 30 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Theo quy định này, tất cả các cá nhân (công dân Việt Nam, công dân nước ngoài, người không có quốc tịch) đều có quyền tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Mặc dù quy định chủ thể thực hiện quyền tố cáo của Luật Tố cáo năm 2018 đã thể chế hóa phù hợp với nội dung và tinh thần của Hiến pháp năm 2013, nhưng đối tượng tố cáo trong Luật Tố cáo năm 2018 lại không phù hợp với Hiến pháp năm 2013, thậm chí là hạn chế quyền tố cáo của cá nhân, không mang tính khả thi trên thực tiễn, chưa khắc phục được hạn chế, bất cập của đối tượng tố cáo trong Luật Tố cáo năm 2011. Luật Tố cáo năm 2018 kế thừa quy định của Luật Tố cáo năm 2011 quy định đối tượng tố cáo là “hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức”. Theo lý luận chung về nhà nước và pháp luật, một hành vi bị coi là vi phạm pháp luật khi có đủ bốn dấu hiện cơ bản sau: Vi phạm pháp luật là hành vi thực tế của con người, vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật, vi phạm pháp luật do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện và vi phạm pháp luật luôn chứa đựng lỗi của chủ thể. Một hành vi xảy ra trong đời sống chỉ bị coi là vi phạm pháp luật khi chứa đựng đầy đủ bốn dấu hiệu trên. Như vậy, để thực hiện quyền tố cáo của mình, chủ thể cần xác định được hành vi thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu trên. Tuy nhiên, trong thực tiễn, không phải bất kỳ ai cũng có khả năng để xác định hành vi vi phạm pháp luật. Để xác định hành vi vi phạm pháp luật phải do chủ thể có thẩm quyền thực hiện, chứ không phải do một chủ thể bất kỳ. Luật quy định cho cá nhân để thực hiện quyền tố cáo phải chứng minh hành vi vi phạm pháp luật là rất khó trên thực tế.

Trong khi đó, Hiến pháp năm 2013 quy định đối tượng tố cáo là “những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Hành vi “trái pháp luật” chỉ là một trong bốn dấu hiệu của “vi phạm pháp luật”. Hành vi trái pháp luật là biểu hiện ra bên ngoài thế giới khách quan, nên rất dễ để cá nhân nhận biết. Cá nhân chỉ cần căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành là xác định được hành vi đó có trái pháp luật hay không. Những hành vi ngược với cách xử sự nêu ra trong quy phạm pháp luật bị coi là hành vi trái pháp luật.

Bên cạnh đó, Hiến pháp năm 2013 cũng không quy định hành vi trái pháp luật đó có gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Chỉ cần xác định có hành vi trái pháp luật là mọi người có thể thực hiện quyền tố cáo, chứ không cần phải xác định xem hành vi trái pháp luật đó có gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Việc xác định hành vi trái pháp luật đó có gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức là rất khó trên thực tế. Hiện nay chưa có các căn cứ rõ ràng để xác định một hành vi trái pháp luật có gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức hay không và việc xác định sẽ phụ thuộc lớn vào ý chí chủ quan của chủ thể có liên quan.

Như vậy, đối tượng tố cáo trong Luật Tố cáo năm 2018 là hẹp hơn so với quy định của Hiến pháp năm 2013. Vì vậy, tác giả cho rằng cần phải sửa đổi khoản 1 Điều 2 Luật Tố cáo năm 2018 theo hướng: “Tố cáo là việc cá nhân theo thủ tục quy định của Luật này báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân, bao gồm: a) Tố cáo việc làm trái pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ; b) Tố cáo việc làm trái pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực”. Luật Tố cáo năm 2018 cần phải thể hiện đúng nội dung, tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về quyền tố cáo của mọi người, khi đó mới tạo điều kiện thuận lợi mọi người chủ động, tích cực tham gia hoạt động quản lý nhà nước, thúc đẩy thượng tôn pháp luật trong hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

2. Các hành vi bị nghiêm cấm trong tố cáo và giải quyết tố cáo

Điều 8 Luật Tố cáo năm 2018 quy định các hành vi bị nghiêm cấm trong tố cáo và giải quyết tố cáo, gồm: “1. Cản trở, gây khó khăn, phiền hà cho người tố cáo. 2. Thiếu trách nhiệm, phân biệt đối xử trong việc giải quyết tố cáo. 3. Tiết lộ họ tên, địa chỉ, bút tích của người tố cáo và thông tin khác làm lộ danh tính của người tố cáo. 4. Làm mất, làm sai lệch hồ sơ, tài liệu vụ việc tố cáo trong quá trình giải quyết tố cáo. 5. Không giải quyết hoặc cố ý giải quyết tố cáo trái pháp luật; lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong việc giải quyết tố cáo để thực hiện hành vi trái pháp luật, sách nhiễu, gây phiền hà cho người tố cáo, người bị tố cáo. 6. Không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ trách nhiệm bảo vệ người tố cáo. 7. Can thiệp trái pháp luật, cản trở việc giải quyết tố cáo. 8. Đe dọa, mua chuộc, trả thù, trù dập, xúc phạm người tố cáo. 9. Bao che người bị tố cáo. 10. Cố ý tố cáo sai sự thật; cưỡng ép, lôi kéo, kích động, dụ dỗ, mua chuộc người khác tố cáo sai sự thật; sử dụng họ tên của người khác để tố cáo. 11. Mua chuộc, hối lộ, đe dọa, trả thù, xúc phạm người giải quyết tố cáo. 12. Lợi dụng quyền tố cáo để tuyên truyền chống Nhà nước, xâm phạm lợi ích của Nhà nước; gây rối an ninh, trật tự công cộng; xuyên tạc, vu khống, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác. 13. Đưa tin sai sự thật về việc tố cáo và giải quyết tố cáo”.

Với quy định trên thì các hành vi bị nghiêm cấm đã gộp chung tất cả các chủ thể người tố cáo, người bị tố cáo, người giải quyết tố cáo và cả những chủ thể có liên quan khác trong quan hệ pháp luật tố cáo. Các quy định này có ưu điểm là dễ tìm kiếm, không trùng lặp về nội dung, tránh mâu thuẫn giữa các quy định pháp luật về cùng vấn đề. Tuy nhiên, mỗi loại chủ thể có đặc điểm riêng khác nhau, nên không thể quy định như nhau đối với tất cả chủ thể được. Nếu chúng ta làm không tốt công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật thì cá nhân bình thường rất khó xác định được hành vi nào của mình bị nghiêm cấm và không bị nghiêm cấm. Bên cạnh đó, Điều 8 Luật Tố cáo năm 2018 quy định theo hướng liệt kê, đóng khung, cố định các hành vi bị nghiêm cấm, trong khi đó, trên thực tế sẽ khó có thể liệt kê được những hành vi có thể xảy ra trong tương lai, từ đó, khiến các quy định không mang tính dự báo, tính ổn định không cáo và không khả thi khi triển khai thực hiện. Trong khi cá nhân có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm thì các chủ thể có thẩm quyền chỉ được làm những gì pháp luật cho phép, do đó, Luật Tố cáo năm 2018 không cần thiết phải quy định các hành vi bị nghiêm cấm của các chủ thể có thẩm quyền giải quyết tố cáo. Vì vậy, Điều 8 Luật Tố cáo năm 2018 nên được sửa đổi theo hướng sau: “Các hành vi bị nghiêm cấm trong tố cáo: 1. Cố ý tố cáo sai sự thật; cưỡng ép, lôi kéo, kích động, dụ dỗ, mua chuộc người khác tố cáo sai sự thật; sử dụng họ tên của người khác để tố cáo; 2. Mua chuộc, hối lộ, đe dọa, trả thù, xúc phạm người giải quyết tố cáo; 3. Lợi dụng quyền tố cáo để tuyên truyền chống Nhà nước, xâm phạm lợi ích của Nhà nước; gây rối an ninh, trật tự công cộng; xuyên tạc, vu khống, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác; 4. Đưa tin sai sự thật về việc tố cáo và giải quyết tố cáo; 5. Các hành vi khác theo quy định của pháp luật”.

3. Bảo vệ người tố cáo

3.1. Người được bảo vệ, phạm vi bảo vệ

Trên cơ sở kế thừa quy định của Luật Tố cáo năm 2011, Luật Tố cáo năm 2018 quy định người được bảo vệ rõ ràng, chặt chẽ hơn, cụ thể: Người được bảo vệ bao gồm người tố cáo, vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người tố cáo (khoản 1 Điều 47). Khác với Luật Tố cáo năm 2011, Luật Tố cáo năm 2018 đã liệt kê rõ ràng thân nhân (người thân thích) của người tố cáo thuộc đối tượng được bảo vệ. Quy định này thể hiện sự tương thích với quy định của pháp luật về dân sự (phù hợp với những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của quy định tại điểm a khoản 1 Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015). Tuy nhiên, nếu tiếp cận dưới góc độ thành viên gia đình theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì phạm vi chủ thể được bảo vệ như hiện nay là khá hẹp, chỉ bao gồm vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người tố cáo (trong khi đó, khoản 16 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định thành viên gia đình bao gồm vợ, chồng; cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, cha dượng, mẹ kế, cha mẹ vợ, cha mẹ chồng; con đẻ, con nuôi, con riêng của vợ hoặc chồng, con dâu, con rể; anh, chị, em cùng cha mẹ, anh, chị, em cùng cha khác mẹ, anh, chị, em cùng mẹ khác cha, anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người cùng cha mẹ hoặc cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; ông bà nội, ông bà ngoại; cháu nội, cháu ngoại; cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột). Gia đình có vai trò quan trọng không chỉ đối với sự phát triển của mỗi cá nhân mà cả trong việc thực hiện các chức năng xã hội, giữ gìn và trao truyền các giá trị văn hóa dân tộc từ thế hệ này sang thế hệ khác. Gia đình đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng, triển khai, thụ hưởng các chính sách chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa[2]. Với truyền thống coi trọng gia đình, người tố cáo họ sẽ “e ngại” vì ảnh hưởng đến thành viên gia đình của họ nên họ sẽ “ngại” tố cáo, nhất là trong việc tố cáo về hành vi tham nhũng, lãng phí. Bởi, người bị tố cáo trong trường hợp này thường là người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan nhà nước nên khả năng trả thù, trù dập xảy ra rất cao. Chính vì vậy, tạo sự an tâm cho người tố cáo “vạch trần” sự thật thì Luật Tố cáo năm 2018 cần mở rộng các chủ thể được bảo vệ: Vợ, chồng; cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, cha dượng, mẹ kế, cha mẹ vợ, cha mẹ chồng; con đẻ, con nuôi, con riêng của vợ hoặc chồng, con dâu, con rể; anh, chị, em cùng cha mẹ, anh, chị, em cùng cha khác mẹ, anh, chị, em cùng mẹ khác cha, anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người cùng cha mẹ hoặc cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; ông bà nội, ông bà ngoại; cháu nội, cháu ngoại; cô, dì, chú, cậu, bác ruột và cháu ruột của người tố cáo.

Luật Tố cáo năm 2018 cũng kế thừa Luật Tố cáo năm 2011 quy định: Người tố cáo được bảo vệ bí mật thông tin cá nhân (khoản 2 Điều 47). Thời điểm Luật Tố cáo năm 2011 có hiệu lực thi hành, các quy định về bảo vệ bí mật thông tin, tiếp cận thông tin… được quy định rải rác ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau và mỗi loại văn bản quy phạm pháp luật lại quy định khác nhau về bí mật thông tin cá nhân, cho nên quy định người tố cáo được bảo vệ bí mật thông tin là cần thiết và phù hợp. Nhưng hiện nay, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 đang có hiệu lực thi hành thì thông tin liên quan đến bí mật cá nhân là thông tin công dân được tiếp cận có điều kiện (Điều 7). Thông tin liên quan đến bí mật cá nhân được tiếp cận trong trường hợp được người đó đồng ý và trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, người đứng đầu cơ quan nhà nước quyết định việc cung cấp thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân trong trường hợp cần thiết vì lợi ích công cộng, sức khỏe của cộng đồng theo quy định của luật có liên quan mà không cần có sự đồng ý của người đó. Như vậy, bảo vệ thông tin liên quan đến bí mật cá nhân là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và mọi công dân đều được bảo vệ bí mật thông tin cá nhân, chứ không chỉ riêng người tố cáo. Vì vậy, để bảo đảm tính thống nhất, không có quy định lặp lại nội dung thì tác giả cho rằng Luật Tố cáo năm 2018 nên bỏ quy định tại khoản 2 Điều 47.

3.2. Cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ

So với Luật Tố cáo năm 2011, Luật Tố cáo năm 2018 đã dành hẳn một điều tại Chương Bảo vệ người tố cáo để quy định trách nhiệm cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ (Điều 49). Đây là quy định mới, là cơ sở pháp lý quan trọng để xác định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc áp dụng biện pháp bảo vệ người tố cáo. Việc áp dụng các biện pháp bảo vệ được thực hiện ngay từ giai đoạn tiếp nhận, xác minh, đến thụ lý giải quyết tố cáo và Luật Tố cáo năm 2018 giao trách nhiệm cho từng cơ quan cụ thể tương ứng với mỗi giai đoạn. Nếu tách bạch riêng cho từng giai đoạn thì quy định này sẽ rất hợp lý và tiến bộ khi mà đã phân công cụ thể từng công việc cho các cơ quan khác nhau. Nhưng bảo vệ người tố cáo cần được đặt trong suốt toàn bộ quá trình xảy ra việc tố cáo, trong nhiều trường hợp, việc xác định cụ thể các cơ quan có trách nhiệm và phương thức phối hợp giữa các cơ quan này sẽ dẫn đến khả năng chồng chéo hoặc né tránh. Chưa kể sự liên quan của nhiều chủ thể như vậy làm giảm tính bảo mật cho thông tin cá nhân của người tố cáo. Vì vậy, phương án tối ưu nhất trong trường hợp này nên được điều chỉnh theo hướng xác định chủ thể duy nhất có trách nhiệm bảo vệ người tố cáo và chủ thể đó chỉ có thể huy động sự hỗ trợ của các cơ quan khác khi cần thiết[3]. Luật Tố cáo năm 2018 nên giao cho người giải quyết tố cáo có trách nhiệm bảo vệ người tố cáo để nhằm tạo tính thống nhất và bảo mật thông tin cho người được bảo vệ. Người giải quyết tố cáo là chủ thể chủ trì, có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác để áp dụng các biện pháp bảo vệ./.

ThS. Dương Văn Quý

Phân hiệu Trường Đại học Luật Hà Nội tại tỉnh Đắk Lắk


[1] Khoản 1 Điều 2 Luật Tố cáo năm 2011 quy định chỉ công dân Việt Nam mới được thực hiện quyền tố cáo.

[2] Trần Thị Minh Thi, Xây dựng giá trị gia đình Việt Nam trong quá trình hiện đại hóa và biến đổi văn hóa, https://tuyengiao.vn/y-te-cong-dong/xay-dung-gia-tri-gia-dinh-viet-nam-trong-qua-trinh-hien-dai-hoa-va-bien-doi-van-hoa-135925, truy cập ngày 20/02/2022.

[3] Nguyễn Anh Đức (2017), “Bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo liên quan đến đầu tư nước ngoài khi thực thi Hiệp định thương mại tự do ở Việt Nam”, Tạp chí Luật học, (11), tr. 30.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Khi thực hiện sắp xếp các đơn vị hành chính và thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp, việc đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động của chính quyền địa phương nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, thích ứng với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới là điều cần thiết. Các địa phương sau sắp xếp đứng trước những yêu cầu cấp thiết về đổi mới, vận hành hiệu quả mô hình tổ chức chính quyền địa phương. Bài viết đề xuất một số kiến nghị để tiếp tục đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động chính quyền địa phương, góp phần bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của nền công vụ trong bối cảnh mới.
Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 194/2025/QH15 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo cơ sở pháp lý thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Bài viết nghiên cứu, phân tích về những nội dung cần bổ sung vào chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để thực hiện việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đang lấy ý kiến nhân dân để thực hiện các chủ trương của Đảng về việc sắp xếp lại chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, không tổ chức cấp huyện. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi bộ máy hành chính phải được tổ chức khoa học, tinh, gọn, minh bạch, hiệu quả nhằm tạo đà cho đất nước phát triển càng trở lên cấp thiết. Xuất phát từ thực trạng tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã và đòi hỏi của thực tiễn, bài viết đề xuất một số gợi mở về đổi mới tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã trong thời gian tới.
Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội như hiện nay, việc tổ chức lại bộ máy chính quyền theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (dự thảo Nghị quyết) là yêu cầu tất yếu. Điều này đòi hỏi phải cải cách toàn diện cả về cấu trúc chiều ngang (sáp nhập địa giới hành chính) và chiều dọc (rút gọn cấp chính quyền trung gian) nhằm mở rộng không gian phát triển, tăng cường tính liên kết giữa trung ương và cơ sở, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân. Bài viết nghiên cứu mô hình tổ chức chính quyền địa phương gắn với địa bàn cụ thể dưới góc nhìn từ cơ sở (Tây Nguyên) để đưa ra những phân tích, nhận định và đề xuất giải pháp cho việc cải cách chính quyền địa phương theo dự thảo Nghị quyết.
So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

Bài viết phân tích, nghiên cứu thiết chế chính quyền địa phương ở Cộng hòa Pháp và Việt Nam; so sánh một số điểm tương đồng, khác biệt về tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương theo hiến pháp của hai nước. Trên cơ sở mô hình tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương của Cộng hòa Pháp, bài viết đề xuất một số kiến nghị để Việt Nam nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cuộc “cách mạng” về tinh gọn bộ máy theo các chủ trương, chính sách của Đảng và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.
Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử. Trên cơ sở nhận diện những khó khăn, vướng mắc, bài viết đề xuất các khuyến nghị để xây dựng khung pháp lý toàn diện, hiệu quả hơn trong việc tích hợp trí tuệ nhân tạo vào công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời gian tới.

Trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bài viết phân tích, đánh giá một số khía cạnh pháp lý, kinh tế của chế độ trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện về chế độ trách nhiệm hữu hạn trong pháp luật doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam.

Hoàn thiện quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dùng vào việc thờ cúng

Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng qua các thời kỳ và thực tiễn áp dụng pháp luật qua công tác xét xử của Tòa án đối với tranh chấp liên quan đến chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng, từ đó, đưa ra một số gợi mở nhằm hoàn thiện chế định này.
Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Sau hơn 11 năm triển khai thi hành, Hiến pháp năm 2013 đã tạo cơ sở hiến định quan trọng cho việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Bên cạnh những kết quả đạt được, hiện nay, việc thực hiện các quy định của Hiến pháp và pháp luật liên quan đến Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và chính quyền địa phương vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện nhằm để đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Ủy ban Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 ban hành Kế hoạch tổ chức lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Việc lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết nhằm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, huy động trí tuệ, tâm huyết và tạo sự đồng thuận, thống nhất cao của toàn dân trong việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013, bảo đảm Hiến pháp phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của Nhân dân.
Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013 là một sự kiện chính trị và pháp lý trọng đại, dù ở phạm vi, quy mô nào cũng là một công việc rất hệ trọng, thiêng liêng. Do vậy, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp phải được tiến hành thận trọng, khách quan, dân chủ, khoa học, hiệu quả với sự tham gia tích cực, đồng bộ của các cơ quan, tổ chức, các chuyên gia, nhà khoa học và toàn thể Nhân dân theo đúng chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính  – bổ sung nhiều quy định mới

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính – bổ sung nhiều quy định mới

Trên cơ sở phát biểu đề dẫn của đồng chí Trương Thế Côn, Tổng Biên tập Tạp chí Dân chủ và pháp luật, phát biểu của đồng chí Hồ Quang Huy, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính về sự cần thiết, quá trình soạn thảo và định hướng xây dựng Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm pháp luật hành chính, Hội thảo khoa học “Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi pham hành chính” đã tiếp nhận được gần 20 ý kiến phát biểu và hơn 10 bài nghiên cứu chuyên sâu. Các bài viết và ý kiến phát biểu tại Hội thảo sẽ được Tạp chí Dân chủ và Pháp luật và Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính tổng hợp, xem xét để gửi tới cá nhân, cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong quá trình xây dựng, quyết định chính sách.
Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp.
Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp  nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV khai mạc sáng ngày 05/5/2025. Đây là Kỳ họp có nhiều nội dung quan trọng, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII - Hội nghị lịch sử, bàn về những quyết sách lịch sử trong giai đoạn Cách mạng mới của nước ta, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm