Thứ hai 17/11/2025 23:10
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Hoàn thiện một số quy định pháp luật tố tụng hình sự

Bài viết phân tích một số quy định còn vướng mắc của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và pháp luật có liên quan, từ đó, đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự, tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự.

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2021[1] (Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015) quy định khá hoàn chỉnh, toàn diện về trình tự, thủ tục tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và một số thủ tục thi hành án hình sự; nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng… Mặc dù vậy, vẫn còn một số quy định chưa phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay, cần được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, góp phần hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

1. Một số vướng mắc trong quy định pháp luật hiện hành

1.1. Về biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp

Giữ người trong trường hợp khẩn cấp là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự áp dụng đối với người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc sau khi thực hiện tội phạm hay bị nghi thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.

Điểm a khoản 1 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định khi thuộc trường hợp khẩn cấp sau đây thì được giữ người: “Có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”. Quá trình áp dụng quy định này còn có cách hiểu chưa thống nhất theo 02 hướng:

- Cách hiểu thứ nhất: Khi có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện mọi tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng được giữ người trong trường hợp khẩn cấp.

- Cách hiểu thứ hai: Do khoản 2 Điều 14 Bộ luật Hình sự hiện hành quy định: “Người chuẩn bị phạm tội quy định tại một trong các điều 108, 109, 110, 111, 112, 113, 114, 115, 116, 117, 118, 119, 120, 121, 123, 134, 168, 169, 207, 299, 300, 301, 302, 303 và 324 của Bộ luật này thì phải chịu trách nhiệm hình sự”. Vì vậy, chỉ trong trường hợp có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện các tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được nêu tại khoản 2 Điều 14 Bộ luật Hình sự hiện hành thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng mới được giữ người trong trường hợp khẩn cấp.

Theo quy định tại khoản 4 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì trong thời hạn 12 giờ kể từ khi tiếp nhận người bị giữ, Cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và những người quy định tại điểm a khoản 2 Điều này phải ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp nếu có đủ tài liệu, chứng cứ hoặc trả tự do ngay cho người đó nếu không có đủ tài liệu, chứng cứ. Xét về mặt trình tự, những người quy định tại điểm a khoản 2 Điều 110 phải ra quyết định tạm giữ trước, sau đó mới ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Vấn đề này cũng được quy định tại khoản 3 Điều 15 Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 19/10/2018 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định về phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự: “Quyết định tạm giữ người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp được ra trước hoặc cùng với lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp”. Tuy nhiên, sau khi ra quyết định tạm giữ thì đối tượng đã trở thành “người bị tạm giữ” chứ không phải là “người bị giữ” trong trường hợp khẩn cấp, cho nên việc cơ quan có thẩm quyền ra lệnh bắt “người bị giữ” trong trường hợp khẩn cấp sau đó là chưa phù hợp.

1.2. Về biện pháp bảo lĩnh và đặt tiền để bảo đảm

Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do cơ quan và người có thẩm quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo, cách ly bị can, bị cáo trong các trường hợp do pháp luật quy định nhằm bảo đảm cho công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự được thuận lợi. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định có 02 biện pháp ngăn chặn thay thế cho tạm giam, đó là biện pháp bảo lĩnh và biện pháp đặt tiền để bảo đảm.

Khoản 1 Điều 121 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh”.

Khoản 1 Điều 122 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Đặt tiền để bảo đảm là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhân thân và tình trạng tài sản của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ hoặc người thân thích của họ đặt tiền để bảo đảm”.

Mục 20 Công văn số 5024/VKSTC-V14 ngày 19/11/2018 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc giải đáp vướng mắc liên quan đến quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và nghiệp vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết vụ án hình sự trong ngành Kiểm sát nhân dân (Công văn số 5024/VKSTC-V14) đã hướng dẫn quy định về thay thế, thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo đang bị áp dụng biện pháp tạm giam được hiểu và áp dụng trong những trường hợp như thế nào: “Theo quy định tại các điều 121, 122 và 123 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm là 02 biện pháp ngăn chặn thay thế biện pháp tạm giam (có nghĩa là chỉ áp dụng biện pháp bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm đối với bị can, bị cáo đang bị tạm giam)”. Tuy nhiên, Công văn số 5024/VKSTC-V14 không thuộc hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nên quá trình áp dụng biện pháp bảo lĩnh và biện pháp đặt tiền để bảo đảm có ba cách hiểu sau đây:

- Cách hiểu thứ nhất: Vì bảo lĩnh và đặt tiền để bảo đảm là những biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam nên điều kiện để được áp dụng hai biện pháp này là bị can, bị cáo phải bị tạm giam trước đó.

- Cách hiểu thứ hai: Vì bảo lĩnh và đặt tiền để bảo đảm là những biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam nên điều kiện để được áp dụng hai biện pháp này là bị can, bị cáo thuộc các trường hợp có thể tạm giam nhưng không tạm giam trước mà áp dụng biện pháp bảo lĩnh hoặc đặt tiền để bảo đảm luôn.

- Cách hiểu thứ ba: Vì bảo lĩnh và đặt tiền để bảo đảm là những biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam nên có thể áp dụng hai biện pháp này trước hoặc sau khi áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam.

1.3. Về một số chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong Công an nhân dân

Điểm e khoản 2 Điều 35 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định cụ thể các chức danh được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của các cơ quan khác trong Công an nhân dân. Đồng thời, khoản 6 Điều 9 Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 cũng quy định cụ thể các cơ quan của Công an nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.

Ngày 09/8/2018, Bộ trưởng Bộ Công an đã quyết định sáp nhập 20 Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy vào Công an các tỉnh, thành phố tương ứng[2], mặt khác, ngày 10/8/2018, Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao được thành lập bằng cách sáp nhập Cục An ninh mạng và Cục Cảnh sát phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao trực thuộc Bộ Công an. Điều này làm thay đổi tên một số của Công an nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra so với khoản 6 Điều 9 Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015.

Bên cạnh đó, Đề án số 19/ĐA-BCA ngày 10/7/2023 của Bộ trưởng Bộ Công an về tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy bên trong của Công an đơn vị, địa phương tinh, gọn, mạnh và Phương án số 01/PA-BCA về triển khai tổ chức bộ máy của các đơn vị thuộc Cơ quan Cảnh sát điều tra các cấp trong Công an nhân dân, bảo đảm nguồn bổ nhiệm Điều tra viên, trong đó có nội dung: Sáp nhập Phòng Cảnh sát môi trường vào Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu và điều chỉnh tên gọi thành Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu, môi trường[3]. Điều này cũng cần được cân nhắc khi sửa đổi, bổ sung điểm e khoản 2 Điều 35 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và khoản 6 Điều 9 Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015.

2. Một số đề xuất

Thứ nhất, về biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp:

Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau, có thể coi Bộ luật Hình sự quy định về nội dung còn Bộ luật Tố tụng hình sự quy định về hình thức, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự phải bám sát, bổ sung cho quy định của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, tác giả đồng tình với cách hiểu thứ hai và đề xuất sửa điểm a khoản 1 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 theo hướng: “Có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được quy định tại khoản 2 Điều 14 Bộ luật Hình sự hiện hành”.

Sau khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng ra quyết định tạm giữ thì đối tượng đã trở thành người bị tạm giữ chứ không còn là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp nên việc cơ quan có thẩm quyền ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp sau khi ra quyết định tạm giữ là chưa phù hợp. Vì vậy, tác giả đề xuất sửa đổi khoản 4 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 theo hướng: “Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi tiếp nhận người bị giữ, Cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và những người quy định tại điểm a khoản 2 Điều này phải ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do ngay cho người đó”.

Thứ hai, về biện pháp bảo lĩnh và đặt tiền để bảo đảm:

Mặc dù Công văn số 5024/VKSTC-V14 đã nêu: Chỉ áp dụng biện pháp bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm đối với bị can, bị cáo đang bị tạm giam. Tuy nhiên, Công văn này không thuộc hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nên quá trình áp dụng biện pháp bảo lĩnh và biện pháp đặt tiền để bảo đảm vẫn có ba cách hiểu như đã trình bày ở trên.

Để góp phần giúp cho các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chủ động và linh hoạt trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn thay thế biện pháp tạm giam, tác giả đồng tình với cách hiểu thứ ba: Bảo lĩnh và đặt tiền để bảo đảm là những biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam nên có thể áp dụng hai biện pháp này trước hoặc sau khi áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam. Vì vậy, tác giả đề xuất sửa đổi khoản 1 Điều 121 và khoản 1 Điều 122 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 theo hướng:

Khoản 1 Điều 121: “Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh trước hoặc sau khi áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam”.

Khoản 1 Điều 122: “Đặt tiền để bảo đảm là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhân thân và tình trạng tài sản của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ hoặc người thân thích của họ đặt tiền để bảo đảm trước hoặc sau khi áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam”.

Thứ ba, về chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong Công an nhân dân:

Cần kịp thời sửa đổi, bổ sung điểm e khoản 2 Điều 35 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và khoản 6 Điều 9 Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 theo hướng cập nhật những thay đổi về tổ chức, thẩm quyền của các chủ thể trong Công an nhân dân trong tình hình mới để bảo đảm hiệu lực, hiệu quả thi hành pháp luật tố tụng hình sự./.

TS. Nguyễn Thị Thanh Thùy

Phó Trưởng Khoa Luật, Học viện An ninh nhân dân

[1]. Xem: Văn bản hợp nhất số 05/VBHN-VPQH ngày 03/12/2021 của Văn phòng Quốc hội về Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2]. Báo điện tử Chính phủ, Sáp nhập 20 Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy vào Công an các tỉnh thành, https://baochinhphu.vn/sap-nhap-20-canh-sat-pccc-vao-cong-an-cac-tinh-thanh-102243079.htm, truy cập ngày 21/5/2024.

[3]. Quang Việt, Các quyết định trong tuần của Bộ trưởng Bộ Công an về bổ nhiệm, sáp nhập, Báo Lao động, https://laodong.vn/thoi-su/cac-quyet-dinh-trong-tuan-cua-bo-truong-bo-cong-an-ve-bo-nhiem-sap-nhap-1233942.ldo, truy cập ngày 21/5/2024.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 408), tháng 7/2024)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết tập trung nghiên cứu một số học thuyết và phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật, chỉ ra những bất cập tồn tại trong quy định pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam chưa phù hợp với các học thuyết này. Từ đó, nghiên cứu đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng trong thời gian tới.
Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Tóm tắt: Cải cách thủ tục hành chính là yếu tố quan trọng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính, thúc đẩy cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đặc biệt là tạo động lực cho đổi mới sáng tạo. Nghiên cứu này phân tích sự cần thiết của cải cách thủ tục hành chính và thực trạng cải cách thủ tục hành chính ở Việt Nam trong việc khơi thông động lực đổi mới sáng tạo, từ đó, đề xuất giải pháp cải cách.
Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích quá trình phát triển tư tưởng về mối quan hệ giữa luật pháp và kinh tế học, tập trung vào trường phái kinh tế học pháp luật với phương pháp phân tích chi phí - lợi ích làm nổi bật vai trò quan trọng của việc cân nhắc các tác động hành vi cùng hiệu quả phân bổ nguồn lực trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Trên cơ sở đó, đề xuất áp dụng phương pháp kinh tế học pháp luật vào quy trình lập pháp tại Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả, tính minh bạch, sự công bằng xã hội và góp phần thúc đẩy cải cách pháp luật bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chuyển đổi số.
Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Tóm tắt: Tranh chấp lao động cá nhân là tranh chấp phổ biến nhất trong quan hệ lao động và ngày càng diễn biến phức tạp, cùng với đó, nhu cầu về cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả, linh hoạt và bảo đảm quyền lợi cho các bên cũng ngày càng tăng trong lĩnh vực lao động. Trọng tài lao động với tính chất độc lập và được thiết kế theo cơ chế ba bên, có tiềm năng trở thành phương thức giải quyết tranh chấp lao động cá nhân hiệu quả. Bài viết phân tích thực trạng pháp luật hiện hành về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích các dấu hiệu nhận diện đặc trưng của tài sản số, những khó khăn, bất cập khi thiếu khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số, kinh nghiệm của Hoa Kỳ và giá trị tham khảo cho Việt Nam. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng khung pháp lý vững chắc giúp Việt Nam có cơ hội phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực công nghệ, bảo vệ quyền lợi của người sở hữu tài sản số, tận dụng tối đa tiềm năng từ tài sản số và tiếp tục vững bước trên con đường phát triển kinh tế số.
Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Tóm tắt: Bài viết phân tích, làm rõ khái niệm người có ảnh hưởng, tình hình thực tiễn về mô hình quảng cáo thông qua người có ảnh hưởng và các hành vi quảng cáo gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng. Trên cơ sở đó, nghiên cứu phân tích một số hạn chế, bất cập trong quy định pháp luật và đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Tóm tắt: Trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên mới với những yêu cầu đặt ra về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như yêu cầu tháo gỡ những “điểm nghẽn”, “nút thắt” có nguyên nhân từ quy định của pháp luật hiện nay, việc hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án dân sự nói riêng là cấp thiết, đặc biệt, dự án Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) dự kiến được Quốc hội khóa XV thông qua tại kỳ họp thứ 10 vào tháng 10/2025. Trước bối cảnh đó, với vai trò là trụ cột, là nguồn lực chủ yếu để xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới, đồng thời là đội ngũ tiên phong tham gia các lĩnh vực mới, thanh niên ngành thi hành án dân sự cần tiếp tục phát huy vai trò và trách nhiệm trong việc tham gia vào công tác hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự.
Hoạt động giám sát của Quốc hội trong thực hiện điều ước quốc tế - Một số tồn tại, hạn chế và kiến nghị, đề xuất hoàn thiện

Hoạt động giám sát của Quốc hội trong thực hiện điều ước quốc tế - Một số tồn tại, hạn chế và kiến nghị, đề xuất hoàn thiện

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích, đánh giá một số tồn tại, hạn chế trong hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam đối với việc thực hiện điều ước quốc tế, từ đó, đưa ra một số kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, bảo đảm công tác giám sát thực hiện điều ước quốc tế ngày càng đi vào thực chất, hiệu quả.
Khả năng thỏa thuận về thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài - Kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Khả năng thỏa thuận về thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài - Kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Tóm tắt: Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại đề cao quyền tự quyết của các bên, vì thủ tục này chỉ được tiến hành khi các bên có thỏa thuận trọng tài. Cơ chế tự do thỏa thuận đặt ra vấn đề, liệu các bên có được thỏa thuận về thời hiệu khởi kiện để đưa tranh chấp ra giải quyết tại trọng tài hay không? Bài viết phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về khả năng thỏa thuận thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại, so sánh với pháp luật của một số quốc gia về vấn đề này; từ đó, đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật.
Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thế chấp tài sản số từ kinh nghiệm pháp luật quốc tế và một số quốc gia

Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thế chấp tài sản số từ kinh nghiệm pháp luật quốc tế và một số quốc gia

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích một số nội dung cơ bản về thế chấp bằng tài sản số trong pháp luật quốc tế và của một số quốc gia; từ đó, kiến nghị một số chính sách để Việt Nam có thể nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hành lang pháp lý phù hợp, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, giúp kinh tế tư nhân phát triển mạnh và bền vững hơn.
Xây dựng đội ngũ công chức, viên chức tư pháp địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng đội ngũ công chức, viên chức tư pháp địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích một số vấn đề lý luận như khái niệm, quan điểm và yêu cầu đặt ra đối với đội ngũ công chức, viên chức tư pháp địa phương trong bối cảnh hiện nay. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác xây dựng đội ngũ công chức, viên chức tư pháp địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Quy định về quyền bề mặt theo pháp luật dân sự Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện

Quy định về quyền bề mặt theo pháp luật dân sự Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về quyền bề mặt qua các thời kỳ; chỉ ra một số bất cập trong quy định pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về quyền bề mặt ở Việt Nam thời gian qua; từ đó, đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Một số định hướng tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Một số định hướng tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Trước yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, hoàn thiện pháp luật hình sự nói riêng là yêu cầu tất yếu. Bài viết phân tích chính sách, pháp luật hình sự hiện hành và một số yêu cầu đặt ra trong bối cảnh hiện nay, từ đó, đề xuất một số định hướng hoàn thiện pháp luật hình sự đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong tố tụng hình sự Việt Nam

Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong tố tụng hình sự Việt Nam

Xuất phát từ luận điểm quá trình tố tụng hình sự là biểu hiện của việc thực hiện quyền tư pháp trong thực tiễn, bài viết đánh giá thực trạng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về vấn đề này, từ đó, đề xuất một số kiến nghị nhằm tiếp tục kiểm soát có hiệu quả quyền tư pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã chủ nghĩa ở Việt Nam thời gian tới.
Hoàn thiện khung pháp lý về trọng tài thương mại trực tuyến trong điều kiện phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam

Hoàn thiện khung pháp lý về trọng tài thương mại trực tuyến trong điều kiện phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam

Trọng tài thương mại trực tuyến có thể được coi là sự sáng tạo và nâng cấp so với trọng tài thương mại truyền thống, đặc biệt, trong thời đại công nghệ số và phát triển nền kinh tế số, có rất nhiều hợp đồng thương mại được ký kết thông qua chữ ký số, hợp đồng thương mại điện tử… Trọng tài thương mại trực tuyến là phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thông qua ứng dụng công nghệ thông tin và phương thức điện tử. Bài viết nghiên cứu, làm rõ về trọng tài thương mại trực tuyến; nhận diện những thách thức khi áp dụng trọng tài trực tuyến để giải quyết tranh chấp thương mại; từ đó, kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện khung pháp lý về trọng tài thương mại trực tuyến trong điều kiện phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam.

Theo dõi chúng tôi trên:

he-thong-benh-vien-quoc-te-vinmec
nha-hang-thai-village
delta-group
khach-san-ladalat
trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
truong-dai-hoc-y-duoc-dai-hoc-quoc-gia-ha-noi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm
cong-ty-co-phan-loc-hoa-dau-binh-son
sofitel-legend-metropole-ha-noi