Thứ ba 09/09/2025 04:38
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Hoàn thiện một số quy định pháp luật tố tụng hình sự

Bài viết phân tích một số quy định còn vướng mắc của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và pháp luật có liên quan, từ đó, đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự, tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự.

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2021[1] (Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015) quy định khá hoàn chỉnh, toàn diện về trình tự, thủ tục tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và một số thủ tục thi hành án hình sự; nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng… Mặc dù vậy, vẫn còn một số quy định chưa phù hợp với tình hình thực tiễn hiện nay, cần được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, góp phần hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

1. Một số vướng mắc trong quy định pháp luật hiện hành

1.1. Về biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp

Giữ người trong trường hợp khẩn cấp là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự áp dụng đối với người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc sau khi thực hiện tội phạm hay bị nghi thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.

Điểm a khoản 1 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định khi thuộc trường hợp khẩn cấp sau đây thì được giữ người: “Có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”. Quá trình áp dụng quy định này còn có cách hiểu chưa thống nhất theo 02 hướng:

- Cách hiểu thứ nhất: Khi có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện mọi tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng được giữ người trong trường hợp khẩn cấp.

- Cách hiểu thứ hai: Do khoản 2 Điều 14 Bộ luật Hình sự hiện hành quy định: “Người chuẩn bị phạm tội quy định tại một trong các điều 108, 109, 110, 111, 112, 113, 114, 115, 116, 117, 118, 119, 120, 121, 123, 134, 168, 169, 207, 299, 300, 301, 302, 303 và 324 của Bộ luật này thì phải chịu trách nhiệm hình sự”. Vì vậy, chỉ trong trường hợp có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện các tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được nêu tại khoản 2 Điều 14 Bộ luật Hình sự hiện hành thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng mới được giữ người trong trường hợp khẩn cấp.

Theo quy định tại khoản 4 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì trong thời hạn 12 giờ kể từ khi tiếp nhận người bị giữ, Cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và những người quy định tại điểm a khoản 2 Điều này phải ra quyết định tạm giữ, ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp nếu có đủ tài liệu, chứng cứ hoặc trả tự do ngay cho người đó nếu không có đủ tài liệu, chứng cứ. Xét về mặt trình tự, những người quy định tại điểm a khoản 2 Điều 110 phải ra quyết định tạm giữ trước, sau đó mới ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Vấn đề này cũng được quy định tại khoản 3 Điều 15 Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 19/10/2018 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định về phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự: “Quyết định tạm giữ người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp được ra trước hoặc cùng với lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp”. Tuy nhiên, sau khi ra quyết định tạm giữ thì đối tượng đã trở thành “người bị tạm giữ” chứ không phải là “người bị giữ” trong trường hợp khẩn cấp, cho nên việc cơ quan có thẩm quyền ra lệnh bắt “người bị giữ” trong trường hợp khẩn cấp sau đó là chưa phù hợp.

1.2. Về biện pháp bảo lĩnh và đặt tiền để bảo đảm

Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do cơ quan và người có thẩm quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo, cách ly bị can, bị cáo trong các trường hợp do pháp luật quy định nhằm bảo đảm cho công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự được thuận lợi. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định có 02 biện pháp ngăn chặn thay thế cho tạm giam, đó là biện pháp bảo lĩnh và biện pháp đặt tiền để bảo đảm.

Khoản 1 Điều 121 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh”.

Khoản 1 Điều 122 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Đặt tiền để bảo đảm là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhân thân và tình trạng tài sản của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ hoặc người thân thích của họ đặt tiền để bảo đảm”.

Mục 20 Công văn số 5024/VKSTC-V14 ngày 19/11/2018 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc giải đáp vướng mắc liên quan đến quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và nghiệp vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết vụ án hình sự trong ngành Kiểm sát nhân dân (Công văn số 5024/VKSTC-V14) đã hướng dẫn quy định về thay thế, thay đổi, hủy bỏ biện pháp tạm giam đối với bị can, bị cáo đang bị áp dụng biện pháp tạm giam được hiểu và áp dụng trong những trường hợp như thế nào: “Theo quy định tại các điều 121, 122 và 123 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm là 02 biện pháp ngăn chặn thay thế biện pháp tạm giam (có nghĩa là chỉ áp dụng biện pháp bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm đối với bị can, bị cáo đang bị tạm giam)”. Tuy nhiên, Công văn số 5024/VKSTC-V14 không thuộc hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nên quá trình áp dụng biện pháp bảo lĩnh và biện pháp đặt tiền để bảo đảm có ba cách hiểu sau đây:

- Cách hiểu thứ nhất: Vì bảo lĩnh và đặt tiền để bảo đảm là những biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam nên điều kiện để được áp dụng hai biện pháp này là bị can, bị cáo phải bị tạm giam trước đó.

- Cách hiểu thứ hai: Vì bảo lĩnh và đặt tiền để bảo đảm là những biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam nên điều kiện để được áp dụng hai biện pháp này là bị can, bị cáo thuộc các trường hợp có thể tạm giam nhưng không tạm giam trước mà áp dụng biện pháp bảo lĩnh hoặc đặt tiền để bảo đảm luôn.

- Cách hiểu thứ ba: Vì bảo lĩnh và đặt tiền để bảo đảm là những biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam nên có thể áp dụng hai biện pháp này trước hoặc sau khi áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam.

1.3. Về một số chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong Công an nhân dân

Điểm e khoản 2 Điều 35 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định cụ thể các chức danh được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra của các cơ quan khác trong Công an nhân dân. Đồng thời, khoản 6 Điều 9 Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 cũng quy định cụ thể các cơ quan của Công an nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.

Ngày 09/8/2018, Bộ trưởng Bộ Công an đã quyết định sáp nhập 20 Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy vào Công an các tỉnh, thành phố tương ứng[2], mặt khác, ngày 10/8/2018, Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao được thành lập bằng cách sáp nhập Cục An ninh mạng và Cục Cảnh sát phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao trực thuộc Bộ Công an. Điều này làm thay đổi tên một số của Công an nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra so với khoản 6 Điều 9 Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015.

Bên cạnh đó, Đề án số 19/ĐA-BCA ngày 10/7/2023 của Bộ trưởng Bộ Công an về tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy bên trong của Công an đơn vị, địa phương tinh, gọn, mạnh và Phương án số 01/PA-BCA về triển khai tổ chức bộ máy của các đơn vị thuộc Cơ quan Cảnh sát điều tra các cấp trong Công an nhân dân, bảo đảm nguồn bổ nhiệm Điều tra viên, trong đó có nội dung: Sáp nhập Phòng Cảnh sát môi trường vào Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu và điều chỉnh tên gọi thành Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu, môi trường[3]. Điều này cũng cần được cân nhắc khi sửa đổi, bổ sung điểm e khoản 2 Điều 35 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và khoản 6 Điều 9 Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015.

2. Một số đề xuất

Thứ nhất, về biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp:

Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau, có thể coi Bộ luật Hình sự quy định về nội dung còn Bộ luật Tố tụng hình sự quy định về hình thức, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự phải bám sát, bổ sung cho quy định của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, tác giả đồng tình với cách hiểu thứ hai và đề xuất sửa điểm a khoản 1 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 theo hướng: “Có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được quy định tại khoản 2 Điều 14 Bộ luật Hình sự hiện hành”.

Sau khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng ra quyết định tạm giữ thì đối tượng đã trở thành người bị tạm giữ chứ không còn là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp nên việc cơ quan có thẩm quyền ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp sau khi ra quyết định tạm giữ là chưa phù hợp. Vì vậy, tác giả đề xuất sửa đổi khoản 4 Điều 110 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 theo hướng: “Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi tiếp nhận người bị giữ, Cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và những người quy định tại điểm a khoản 2 Điều này phải ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do ngay cho người đó”.

Thứ hai, về biện pháp bảo lĩnh và đặt tiền để bảo đảm:

Mặc dù Công văn số 5024/VKSTC-V14 đã nêu: Chỉ áp dụng biện pháp bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm đối với bị can, bị cáo đang bị tạm giam. Tuy nhiên, Công văn này không thuộc hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nên quá trình áp dụng biện pháp bảo lĩnh và biện pháp đặt tiền để bảo đảm vẫn có ba cách hiểu như đã trình bày ở trên.

Để góp phần giúp cho các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chủ động và linh hoạt trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn thay thế biện pháp tạm giam, tác giả đồng tình với cách hiểu thứ ba: Bảo lĩnh và đặt tiền để bảo đảm là những biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam nên có thể áp dụng hai biện pháp này trước hoặc sau khi áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam. Vì vậy, tác giả đề xuất sửa đổi khoản 1 Điều 121 và khoản 1 Điều 122 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 theo hướng:

Khoản 1 Điều 121: “Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh trước hoặc sau khi áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam”.

Khoản 1 Điều 122: “Đặt tiền để bảo đảm là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhân thân và tình trạng tài sản của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ hoặc người thân thích của họ đặt tiền để bảo đảm trước hoặc sau khi áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam”.

Thứ ba, về chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong Công an nhân dân:

Cần kịp thời sửa đổi, bổ sung điểm e khoản 2 Điều 35 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và khoản 6 Điều 9 Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 theo hướng cập nhật những thay đổi về tổ chức, thẩm quyền của các chủ thể trong Công an nhân dân trong tình hình mới để bảo đảm hiệu lực, hiệu quả thi hành pháp luật tố tụng hình sự./.

TS. Nguyễn Thị Thanh Thùy

Phó Trưởng Khoa Luật, Học viện An ninh nhân dân

[1]. Xem: Văn bản hợp nhất số 05/VBHN-VPQH ngày 03/12/2021 của Văn phòng Quốc hội về Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2]. Báo điện tử Chính phủ, Sáp nhập 20 Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy vào Công an các tỉnh thành, https://baochinhphu.vn/sap-nhap-20-canh-sat-pccc-vao-cong-an-cac-tinh-thanh-102243079.htm, truy cập ngày 21/5/2024.

[3]. Quang Việt, Các quyết định trong tuần của Bộ trưởng Bộ Công an về bổ nhiệm, sáp nhập, Báo Lao động, https://laodong.vn/thoi-su/cac-quyet-dinh-trong-tuan-cua-bo-truong-bo-cong-an-ve-bo-nhiem-sap-nhap-1233942.ldo, truy cập ngày 21/5/2024.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 408), tháng 7/2024)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Một số định hướng tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Một số định hướng tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Trước yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, hoàn thiện pháp luật hình sự nói riêng là yêu cầu tất yếu. Bài viết phân tích chính sách, pháp luật hình sự hiện hành và một số yêu cầu đặt ra trong bối cảnh hiện nay, từ đó, đề xuất một số định hướng hoàn thiện pháp luật hình sự đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong tố tụng hình sự Việt Nam

Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong tố tụng hình sự Việt Nam

Xuất phát từ luận điểm quá trình tố tụng hình sự là biểu hiện của việc thực hiện quyền tư pháp trong thực tiễn, bài viết đánh giá thực trạng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về vấn đề này, từ đó, đề xuất một số kiến nghị nhằm tiếp tục kiểm soát có hiệu quả quyền tư pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã chủ nghĩa ở Việt Nam thời gian tới.
Hoàn thiện khung pháp lý về trọng tài thương mại trực tuyến trong điều kiện phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam

Hoàn thiện khung pháp lý về trọng tài thương mại trực tuyến trong điều kiện phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam

Trọng tài thương mại trực tuyến có thể được coi là sự sáng tạo và nâng cấp so với trọng tài thương mại truyền thống, đặc biệt, trong thời đại công nghệ số và phát triển nền kinh tế số, có rất nhiều hợp đồng thương mại được ký kết thông qua chữ ký số, hợp đồng thương mại điện tử… Trọng tài thương mại trực tuyến là phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thông qua ứng dụng công nghệ thông tin và phương thức điện tử. Bài viết nghiên cứu, làm rõ về trọng tài thương mại trực tuyến; nhận diện những thách thức khi áp dụng trọng tài trực tuyến để giải quyết tranh chấp thương mại; từ đó, kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện khung pháp lý về trọng tài thương mại trực tuyến trong điều kiện phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam.
Pháp luật về phòng ngừa tiếng ồn - Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện

Pháp luật về phòng ngừa tiếng ồn - Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện

Thông qua việc phân tích, đánh giá tầm quan trọng của phòng ngừa tiếng ồn và những hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật, bài viết đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật điều chỉnh về vấn đề này nhằm góp phần hạn chế tác động tiêu cực từ nguồn, bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành của người dân theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013 và Luật Bảo vệ môi trường năm 2020.
Hoàn thiện quy định pháp luật bảo đảm việc làm bền vững trong hoạt động của công ty đa quốc gia

Hoàn thiện quy định pháp luật bảo đảm việc làm bền vững trong hoạt động của công ty đa quốc gia

Việc làm bền vững là mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Các công ty đa quốc gia (Multinational Enterprises - MNEs), thông qua hoạt động đầu tư, có vai trò đáng kể trong tạo việc làm, nâng cao thu nhập và thực hiện trách nhiệm xã hội doanh nghiệp. Việt Nam đã nội luật hóa nhiều tiêu chuẩn lao động quốc tế, song còn tồn tại “khoảng trống” pháp lý trong bảo đảm việc làm bền vững, đặc biệt với MNEs. Bài viết phân tích nghĩa vụ của MNEs theo pháp luật quốc tế, đánh giá bất cập trong quy định pháp luật Việt Nam, từ đó, đề xuất giải pháp hoàn thiện khung pháp lý nhằm bảo vệ quyền lợi người lao động và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững trong bối cảnh hội nhập.
Các mô hình, kinh nghiệm lập pháp của một số nước trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Các mô hình, kinh nghiệm lập pháp của một số nước trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Bài viết phân tích các mô hình lập pháp và kinh nghiệm của một số nước trên thế giới trong việc đổi mới quy trình lập pháp; trên cơ sở đó, liên hệ và gợi mở một số vấn đề cần tiếp tục sửa đổi để hoàn thiện mô hình, quy trình lập pháp ở Việt Nam hiện nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, quyền công dân thể hiện qua Hiến pháp năm 1946 và những giá trị được kế thừa, phát triển trong giai đoạn hiện nay

Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, quyền công dân thể hiện qua Hiến pháp năm 1946 và những giá trị được kế thừa, phát triển trong giai đoạn hiện nay

Hiến pháp năm 1946 là bản Hiến pháp dân chủ, tiến bộ, kết tinh giá trị của thời đại, phản ánh tư tưởng về Nhà nước pháp quyền của Hồ Chí Minh, là thành quả của công cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do của toàn dân tộc. Bài viết phân tích nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, quyền công dân thể hiện qua bản Hiến pháp năm 1946 và đánh giá việc kế thừa, phát triển những tư tưởng này trong giai đoạn hiện nay.
Bàn về luật công, luật tư trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam

Bàn về luật công, luật tư trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam

Bài viết nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về việc xây dựng, phân chia hệ thống pháp luật trên nền tảng của luật công, luật tư; làm rõ ý nghĩa, vai trò cơ bản của việc phân chia luật công, luật tư; từ đó, gợi mở một số giải pháp xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong kỷ nguyên mới.
Hoàn thiện pháp luật về xử lý quyền tài sản được dùng bảo đảm trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại

Hoàn thiện pháp luật về xử lý quyền tài sản được dùng bảo đảm trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại

Bài viết phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn pháp luật về thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý quyền tài sản được dùng bảo đảm trong hoạt động cấp tín dụng tại ngân hàng; đồng thời, làm rõ các vướng mắc, bất cập trong quy định pháp luật hiện hành, đặc biệt, khi có sự tham gia của bên thứ ba như bên tài trợ vốn, bên kiểm soát, bên đầu tư vào quyền tài sản. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật để bảo đảm cân bằng lợi ích giữa các chủ thể, đồng thời, tăng cường an toàn pháp lý cho hoạt động cấp tín dụng bảo đảm bằng quyền tài sản.
Hoàn thiện khung pháp lý về bảo vệ dữ liệu cá nhân của trẻ em trong môi trường số ở Việt Nam hiện nay

Hoàn thiện khung pháp lý về bảo vệ dữ liệu cá nhân của trẻ em trong môi trường số ở Việt Nam hiện nay

Trong bối cảnh công nghệ số phát triển mạnh mẽ, việc bảo vệ dữ liệu cá nhân nói chung, đặc biệt là dữ liệu của trẻ em - đối tượng dễ bị tổn thương - trở thành vấn đề cấp thiết. Thời gian qua, mặc dù Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng trong việc xây dựng khung pháp lý bảo vệ dữ liệu cá nhân trẻ em nhưng thực tế vẫn còn nhiều hạn chế, thách thức cần giải quyết. Bài viết tập trung phân tích khung pháp lý hiện hành của Việt Nam về bảo vệ dữ liệu cá nhân trẻ em, đánh giá những kết quả đạt được và hạn chế, đồng thời, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện nhằm bảo đảm quyền và lợi ích tốt nhất của trẻ em trong môi trường số.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, quyền công dân sau hơn 10 năm thi hành Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, quyền công dân sau hơn 10 năm thi hành Hiến pháp năm 2013

Thực tiễn cho thấy, việc thể chế hóa chế định quyền con người, quyền công dân sau hơn 10 năm Thi hành Hiến pháp năm 2013 đã đạt được những thành tựu đáng kể nhưng cũng còn hạn chế, khó khăn nhất định. Để tiếp tục hoàn thiện pháp luật về quyền con người, quyền công dân cần thực hiện đúng, đầy đủ trách nhiệm theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và thể chể hóa các chủ trương, chính sách mới của Đảng về đổi mới tư duy xây dựng, thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Giới hạn, điều kiện áp dụng hình phạt theo luật nhân quyền quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Giới hạn, điều kiện áp dụng hình phạt theo luật nhân quyền quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Bài viết phân tích các quy định về giới hạn và điều kiện áp dụng hình phạt trong luật nhân quyền quốc tế, qua đó, chứng minh luật nhân quyền quốc tế đặt ra những giới hạn và điều kiện về bản chất, mức độ, đối tượng, thủ tục áp dụng hình phạt trong tố tụng hình sự nhằm ngăn chặn sự lạm quyền trong việc phòng, chống tội phạm và thúc đẩy tính nhân đạo của tư pháp hình sự. Đồng thời, bài viết cũng khảo sát, nghiên cứu kinh nghiệm của Cộng hòa liên bang Đức, Na Uy, Canada và Nam Phi, qua đó, gợi ý một số cải cách để Việt Nam có thể tham khảo, tiếp thu có chọn lọc góp phần hoàn thiện pháp luật về áp dụng hình phạt tiệm cận hơn với các tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế về vấn đề này.
Hoàn thiện quy định về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính tại dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính

Hoàn thiện quy định về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính tại dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính

Xử phạt vi phạm hành chính là một trong những công cụ hữu hiệu để Nhà nước đấu tranh và phòng ngừa vi phạm hành chính. Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính đang được sửa đổi và dự kiến thông qua tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV với nhiều điểm mới, đặc biệt là các quy định liên quan đến thủ tục xử phạt vi phạm hành chính. Bài viết phân tích, luận giải một số vấn đề như điều kiện xử phạt hành chính không lập biên bản, quyền giải trình đối với trường hợp xử phạt theo thủ tục không lập biên bản, thời hạn chuyển biên bản vi phạm hành chính đến người có thẩm quyền xử phạt, về người chứng kiến ký biên bản vi phạm hành chính và kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy về định thủ tục xử phạt vi phạm hành chính tại dự thảo Luật.
Hoàn thiện quy định pháp luật về thủ tục giải trình trong xử phạt vi phạm hành chính

Hoàn thiện quy định pháp luật về thủ tục giải trình trong xử phạt vi phạm hành chính

Bài viết tập trung phân tích những vướng mắc, bất cập của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2017, 2020, 2022 (Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012) về thủ tục giải trình trong xử phạt vi phạm hành chính, từ đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật liên quan.
Thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong bối cảnh tinh gọn bộ máy nhà nước

Thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong bối cảnh tinh gọn bộ máy nhà nước

Theo quy định pháp luật, thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thuộc về Tòa án nhân dân cấp huyện. Để áp dụng biện pháp này, các cơ quan hành chính phải lập hồ sơ đề nghị để Tòa án nhân dân cấp huyện xem xét, quyết định cho phép thực hiện. Bài viết nghiên cứu, phân tích về thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đồng thời, đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật trong bối cảnh tinh gọn bộ máy nhà nước.

Theo dõi chúng tôi trên:

he-thong-benh-vien-quoc-te-vinmec
trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm
cong-ty-co-phan-loc-hoa-dau-binh-son
sofitel-legend-metropole-ha-noi