Thứ hai 09/06/2025 13:07
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Hoàn thiện quy định pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo Công ước Viên năm 1980

Bài viết tập trung đánh giá mức độ tương thích trong quy định về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế của pháp luật Việt Nam so với Công ước Viên năm 1980, từ đó, đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật Việt Nam về nội dung này.

Hiện nay, việc đẩy mạnh phát triển thương mại quốc tế đang là xu hướng tất yếu của tất cả các nước trên thế giới, theo đó, các hợp đồng thương mại quốc tế ngày càng phổ biến và được sử dụng rộng rãi đối với các doanh nghiệp kinh doanh. Ngày 18/12/2015, Việt Nam đã chính thức phê duyệt việc gia nhập Công ước Viên về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế của Liên Hợp quốc (CISG) (sau đây gọi tắt là Công ước Viên năm 1980) để trở thành viên thứ 84 của Công ước này. Công ước Viên năm 1980 bắt đầu có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 01/01/2017 được soạn thảo và thực thi dưới sự bảo trợ của Liên Hợp quốc. Việc gia nhập Công ước Viên năm 1980 đã đánh dấu một mốc mới, quan trọng trong quá trình tham gia vào các điều ước quốc tế đa phương về thương mại, tăng cường mức độ hội nhập của Việt Nam, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về mua bán hàng hóa quốc tế, bảo đảm công bằng và an toàn để thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển nền kinh tế bền vững.

1. Đánh giá mức độ tương thích trong quy định về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế của pháp luật Việt Nam với Công ước Viên năm 1980

Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là hợp đồng được ký kết giữa các thương nhân có trụ sở thương mại (địa điểm kinh doanh) nằm trên lãnh thổ của các quốc gia khác nhau. Đây là loại hợp đồng chủ yếu và chiếm vị trí trung tâm trong hoạt động thương mại quốc tế. Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là một loại của hợp đồng thương mại quốc tế (hợp đồng thương mại có yếu tố nước ngoài). Pháp luật quốc tế, hệ thống pháp luật quốc gia có những quy định khác nhau liên quan đến yếu tố quốc tịch, nơi cư trú, trụ sở của chủ thể, nơi xác lập hợp đồng, nơi thực hiện hợp đồng, nơi có tài sản là đối tượng hợp đồng…

Ở Việt Nam, hiện nay, chưa có luật dành riêng cho giao dịch thương mại quốc tế. Luật Thương mại năm 2005 là luật điều chỉnh chung cho các hoạt động thương mại, bao gồm thương mại nội địa và thương mại quốc tế. Trong trường hợp quan hệ thương mại không được đề cập trong Luật Thương mại năm 2005 thì sẽ được điều chỉnh bằng Bộ luật Dân sự năm 2015. Luật Thương mại năm 2005 có nhiều nội dung tương thích với Công ước Viên năm 1980, tuy nhiên, vẫn còn có một số điểm khác biệt, cần được hoàn thiện để phù hợp với Công ước Viên năm 2008, cụ thể:

Thứ nhất, về đối tượng hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, theo Điều 2 Công ước Viên năm 1980, đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được quy định mang tính chất loại trừ “Công ước Viên không áp dụng vào việc mua bán…”. Trong khi đó, đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được pháp luật Việt Nam quy định tại Luật Thương mại năm 2005 với tiêu chí hàng hóa phải là động sản; hàng có thể được di chuyển qua biên giới của Việt Nam hoặc qua biên giới của một nước; hoặc di chuyển qua khu chế xuất, khu vực hải quan riêng... để xem xét tính quốc tế của hợp đồng thương mại quốc tế. Hàng hóa là đối tượng của hợp đồng sẽ được chuyển từ quốc gia này qua quốc gia khác, tức là có sự dịch chuyển giữa các biên giới các quốc gia hoặc các vùng lãnh thổ. Trong đó, biên giới có thể được hiểu là biên giới địa lý hoặc biên giới theo pháp lý (dù không có sự dịch chuyển về lãnh thổ). Nếu hàng hóa là bất động sản cho dù được bán cho người nước ngoài thì đó không phải là hợp đồng thương mại quốc tế. Việc mua bán bất động sản với người nước ngoài tuân thủ quy định pháp lý riêng.

Như vậy, đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế Việt Nam quy định rộng hơn, không cụ thể, không loại trừ, trong trường hợp cụ thể như máy bay, tàu biển theo Công ước Viên năm 1980 thì không là đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.

Thứ hai, về hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, theo quy định tại Điều 11 Công ước Viên năm 1980 thì hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được thể hiện dưới bất kỳ hình thức nào cũng đều được coi là hợp pháp: “Hợp đồng mua bán không cần phải được ký kết hoặc xác nhận bằng văn bản hay phải tuân thủ một yêu cầu nào khác về hình thức hợp đồng. Hợp đồng có thể được chứng minh bằng mọi cách, kể cả bằng những lời khai của nhân chứng”. Tuy nhiên, Điều 96 Công ước Viên năm 1980 lại quy định, nếu luật của một quốc gia thành viên quy định hợp đồng mua bán phải được ký kết hay xác nhận bằng văn bản thì quy định này được tôn trọng.

Theo quy định tại khoản 7 Điều 683 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì: “Hình thức của hợp đồng được xác định theo pháp luật áp dụng đối với hợp đồng đó. Trường hợp hình thức của hợp đồng không phù hợp với hình thức hợp đồng theo pháp luật áp dụng đối với hợp đồng đó, nhưng phù hợp với hình thức hợp đồng theo pháp luật của nước nơi giao kết hợp đồng hoặc pháp luật Việt Nam thì hình thức hợp đồng đó được công nhận tại Việt Nam”. Khoản 1 Điều 683 Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng quy định: “Các bên trong quan hệ hợp đồng được thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng đối với hợp đồng”. Như vậy, có thể thấy, Điều 683 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã được xây dựng theo hướng mở rộng tối đa phạm vi các bên chủ thể của hợp đồng được thỏa thuận lựa chọn luật áp dụng và điều này phù hợp với pháp luật quốc tế.

Điều 27 Luật Thương mại năm 2005 quy định: “Mua bán hàng hóa quốc tế phải được lập bằng văn bản hoặc các hình thức khác có giá trị tương đương”. Tuy nhiên, khoản 15 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005 cũng quy định: “Các hình thức có giá trị tương đương văn bản bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp luật”. Có thể thấy, quy định của pháp luật Việt Nam hạn chế hình thức hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế hơn so với Công ước Viên năm 1980 và hình thức của hợp đồng được coi là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng.

Như vậy, Công ước Viên năm 1980 không quy định về hình thức hợp đồng, không quy định hình thức là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, còn pháp luật Việt Nam quy định văn bản là hình thức bắt buộc nên hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, doanh nghiệp Việt Nam là một bên tham gia ký kết mà Công ước Viên năm 1980 là nguồn luật điều chỉnh thì hợp đồng phải được lập ở dạng văn bản hoặc các hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương.

Thứ ba, về thời hạn khiếu nại đối với hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, Điều 318 Luật Thương mại năm 2005 quy định, thời hạn khiếu nại là ba tháng, kể từ ngày giao hàng đối với khiếu nại về số lượng hàng hóa và sáu tháng, kể từ ngày giao hàng đối với khiếu nại về chất lượng hàng hóa, chín tháng, kể từ ngày bên vi phạm hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc trong trường hợp có bảo hành thì kể từ ngày hết hạn bảo hành đối với các khiếu nại về vi phạm khác. Như vậy, thời hạn tối đa để khiếu nại là không quá chín tháng. Trong khi khoản 2 Điều 39 Công ước Viên năm 1980 lại quy định: “Trong mọi trường hợp, người mua bị mất quyền khiếu nại về việc hàng không phù hợp với hợp đồng nếu họ không thông báo cho người bán biết về việc đó chậm nhất trong thời hạn 02 năm kể từ ngày hàng hóa đã thực sự được giao cho người mua trừ phi thời hạn này trái ngược với thời hạn bảo hành quy định trong hợp đồng”.

Thời hạn khiếu nại dài hơn thể hiện sự bảo vệ người mua và tính công bằng, đặc biệt trong trường hợp hàng hóa là máy móc, có thể có những lỗi ẩn tỳ mà sau thời gian sử dụng lâu hơn 06 tháng mới phát hiện ra.

Thứ tư, về các trường hợp miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, Điều 294 Luật Thương mại năm 2005 và Điều 79 Công ước Viên năm 1980 đều quy định trường hợp miễn trách nhiệm bao gồm: Trường hợp bất khả kháng và trường hợp lỗi của bên bị vi phạm. Tuy nhiên, Điều 79 Công ước Viên năm 1980 còn quy định việc miễn trách nhiệm của bên thứ ba, trong khi Luật Thương mại năm 2005 không có quy định cụ thể về vấn đề này. Bên cạnh đó, tại điểm d khoản 1 Điều 294 Luật Thương mại năm 2005 quy định, do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng. Quy định này cũng có thể được coi là một trường hợp “bất khả kháng” nằm trong khoản 1 Điều 79 Công ước Viên năm 1980, phạm vi khoản 1 Điều 79 này được quy định rộng hơn.

Như vậy, nhìn chung, Công ước Viên năm 1980 thể hiện sự toàn diện và công bằng hơn khi quy định các trường hợp miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng. Cùng với sự phát triển của kinh tế quốc tế, sự giao thương rộng mở, dịch vụ giao nhận vận tải và logistics phát triển thì việc xuất hiện bên thứ ba tham gia vào quy trình thực hiện hợp đồng là rất phổ biến trên thực tế. Xét riêng trên khía cạnh các trường hợp miễn trách thì Công ước Viên năm 1980 sẽ bảo đảm tính công bằng và an toàn hơn đối với các chủ thể.

Thứ năm, về trách nhiệm buộc thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, Luật Thương mại năm 2005 quy định trách nhiệm buộc thực hiện hợp đồng tại Ðiều 297, Công ước Viên năm 1980 quy định buộc thực hiện hợp đồng của người mua (Điều 46), quy định buộc thực hiện hợp đồng của người bán (Điều 62). Như vậy, mặc dù cả Công ước Viên năm 1980 và Luật Thương mại năm 2005 đều quy định bên vi phạm hoặc phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hoặc phải thay thế hàng hóa, tuy nhiên, Luật Thương mại năm 2005 chưa chỉ ra căn cứ để áp dụng thay thế hàng hóa, mà chỉ quy định chung chung biện pháp này được áp dụng khi hàng hóa vi phạm về chất lượng và bên vi phạm có thể dùng tiền để thay thế nếu bên bị vi phạm chấp nhận (khoản 2 Điều 297 Luật Thương mại năm 2005). Các quy định theo Luật Thương mại năm 2005 còn chưa rõ ràng, minh bạch nên dễ gây ra bất đồng liên quan đến phạm vi vi phạm chất lượng hàng hóa giữa các bên.

Trong khi đó, theo Công ước Viên năm 1980, điều kiện để bên bị vi phạm được áp dụng biện pháp thay thế hàng hóa khi sự không phù hợp của hàng hóa cấu thành “vi phạm cơ bản”, còn trong các trường hợp khác bên bị vi phạm chỉ được áp dụng biện pháp sửa chữa hàng hóa, loại trừ khuyết tật của hàng hóa và các trường hợp buộc thực hiện nghĩa vụ cụ thể khác tại Điều 47, 48. Như vậy, quy định này của Công ước Viên năm 1980 rõ ràng hơn, có căn cứ hơn, bảo vệ quyền lợi của các bên tốt hơn khi giải quyết tranh chấp, xung đột.

2. Một số kiến nghị

Qua nghiên cứu thực trạng quy định pháp luật của Việt Nam về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cho thấy cơ bản tương đồng với các quy định của Công ước Viên năm 1980 và thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề vướng mắc, bất cập mà pháp luật Việt Nam cần hoàn thiện để phù hợp, tiệm cận với các quy định của Công ước Viên năm 1980 đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Cụ thể:

Một là, về đối tượng của hợp đồng, hàng hóa được đưa ra giao dịch là động sản, theo tác giả, Luật Thương mại năm 2005 cần quy định cụ thể, linh hoạt, phù hợp hơn với Công ước Viên năm 1980, tránh các xung đột pháp luật không cần thiết, mặc dù quy định hiện tại cũng đã cụ thể hóa hơn phần nào các quy định của Công ước Viên năm 1980.

Hai là, về hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, hiện nay, Luật Thương mại năm 2005 đang quy định hẹp hơn so với Công ước Viên và đó là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, theo tác giả, để bảo đảm tính thời đại, mềm dẻo, linh hoạt, phù hợp với tiền lệ pháp quốc tế thì cần bổ sung các quy định hình thức tương đương với văn bản.

Ba là, về thời hiệu khiếu nại, trên cơ sở quy định của Công ước Viên năm 1980 với thời hiệu khiếu nại tối đa là 02 năm, thiết nghĩ, Luật Thương mại năm 2005 cần sửa đổi thời hiệu tương đồng với quy định Công ước Viên năm 1980 nhằm bảo đảm quyền lợi các chủ thể, phát huy tính ưu việt trong quá trình áp dụng.

Bốn là, về trường hợp miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, tác giả cho rằng, Công ước Viên năm 1980 sẽ bảo đảm tính công bằng và an toàn hơn đối với các chủ thể. Vì vậy, cần sửa đổi quy định tại Điều 294 Luật Thương mại năm 2005 theo tinh thần Công ước Viên năm 1980 nhằm bảo đảm quyền lợi của các chủ thể tham gia mua bán hàng hóa quốc tế, tuân thủ quy định Công ước Viên năm 1980 mà Việt Nam đã tham gia.

Năm là, về trách nhiệm buộc thực hiện hợp đồng, quy định này của Công ước Viên năm 1980 rõ ràng hơn, có căn cứ hơn so với Luật Thương mại năm 2005 khi giải quyết tranh chấp, xung đột. Chính vì vậy, cần sửa đổi Điều 297 Luật Thương mại năm 2005 theo hướng chỉ ra căn cứ áp dụng, giải thích rõ ràng, cụ thể về việc thay thế hàng hóa, bảo đảm nguyên tắc tuân thủ và quyền lợi chủ thể tham gia.

Có thể nói, việc sửa đổi, hoàn thiện các quy định về mua bán hàng hóa quốc tế là cần thiết nhằm bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật và áp dụng pháp luật; đồng thời, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và hội nhập sâu, rộng của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới, bảo đảm tính tương thích của pháp luật Việt Nam với các điều ước quốc tế đã ký kết và sự hấp dẫn của môi trường kinh doanh Việt Nam với các nhà đầu tư quốc tế.

TS. Lê Minh Thái

Khoa Luật, Đại học Văn Lang

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 394), tháng 12/2023)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 194/2025/QH15 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo cơ sở pháp lý thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Bài viết nghiên cứu, phân tích về những nội dung cần bổ sung vào chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để thực hiện việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đang lấy ý kiến nhân dân để thực hiện các chủ trương của Đảng về việc sắp xếp lại chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, không tổ chức cấp huyện. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi bộ máy hành chính phải được tổ chức khoa học, tinh, gọn, minh bạch, hiệu quả nhằm tạo đà cho đất nước phát triển càng trở lên cấp thiết. Xuất phát từ thực trạng tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã và đòi hỏi của thực tiễn, bài viết đề xuất một số gợi mở về đổi mới tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã trong thời gian tới.
Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội như hiện nay, việc tổ chức lại bộ máy chính quyền theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (dự thảo Nghị quyết) là yêu cầu tất yếu. Điều này đòi hỏi phải cải cách toàn diện cả về cấu trúc chiều ngang (sáp nhập địa giới hành chính) và chiều dọc (rút gọn cấp chính quyền trung gian) nhằm mở rộng không gian phát triển, tăng cường tính liên kết giữa trung ương và cơ sở, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân. Bài viết nghiên cứu mô hình tổ chức chính quyền địa phương gắn với địa bàn cụ thể dưới góc nhìn từ cơ sở (Tây Nguyên) để đưa ra những phân tích, nhận định và đề xuất giải pháp cho việc cải cách chính quyền địa phương theo dự thảo Nghị quyết.
So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

Bài viết phân tích, nghiên cứu thiết chế chính quyền địa phương ở Cộng hòa Pháp và Việt Nam; so sánh một số điểm tương đồng, khác biệt về tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương theo hiến pháp của hai nước. Trên cơ sở mô hình tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương của Cộng hòa Pháp, bài viết đề xuất một số kiến nghị để Việt Nam nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cuộc “cách mạng” về tinh gọn bộ máy theo các chủ trương, chính sách của Đảng và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.
Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử. Trên cơ sở nhận diện những khó khăn, vướng mắc, bài viết đề xuất các khuyến nghị để xây dựng khung pháp lý toàn diện, hiệu quả hơn trong việc tích hợp trí tuệ nhân tạo vào công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời gian tới.

Trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bài viết phân tích, đánh giá một số khía cạnh pháp lý, kinh tế của chế độ trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện về chế độ trách nhiệm hữu hạn trong pháp luật doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam.

Hoàn thiện quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dùng vào việc thờ cúng

Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng qua các thời kỳ và thực tiễn áp dụng pháp luật qua công tác xét xử của Tòa án đối với tranh chấp liên quan đến chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng, từ đó, đưa ra một số gợi mở nhằm hoàn thiện chế định này.
Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Sau hơn 11 năm triển khai thi hành, Hiến pháp năm 2013 đã tạo cơ sở hiến định quan trọng cho việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Bên cạnh những kết quả đạt được, hiện nay, việc thực hiện các quy định của Hiến pháp và pháp luật liên quan đến Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và chính quyền địa phương vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện nhằm để đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Ủy ban Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 ban hành Kế hoạch tổ chức lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Việc lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết nhằm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, huy động trí tuệ, tâm huyết và tạo sự đồng thuận, thống nhất cao của toàn dân trong việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013, bảo đảm Hiến pháp phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của Nhân dân.
Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013 là một sự kiện chính trị và pháp lý trọng đại, dù ở phạm vi, quy mô nào cũng là một công việc rất hệ trọng, thiêng liêng. Do vậy, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp phải được tiến hành thận trọng, khách quan, dân chủ, khoa học, hiệu quả với sự tham gia tích cực, đồng bộ của các cơ quan, tổ chức, các chuyên gia, nhà khoa học và toàn thể Nhân dân theo đúng chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính  – bổ sung nhiều quy định mới

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính – bổ sung nhiều quy định mới

Trên cơ sở phát biểu đề dẫn của đồng chí Trương Thế Côn, Tổng Biên tập Tạp chí Dân chủ và pháp luật, phát biểu của đồng chí Hồ Quang Huy, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính về sự cần thiết, quá trình soạn thảo và định hướng xây dựng Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm pháp luật hành chính, Hội thảo khoa học “Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi pham hành chính” đã tiếp nhận được gần 20 ý kiến phát biểu và hơn 10 bài nghiên cứu chuyên sâu. Các bài viết và ý kiến phát biểu tại Hội thảo sẽ được Tạp chí Dân chủ và Pháp luật và Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính tổng hợp, xem xét để gửi tới cá nhân, cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong quá trình xây dựng, quyết định chính sách.
Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp.
Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp  nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV khai mạc sáng ngày 05/5/2025. Đây là Kỳ họp có nhiều nội dung quan trọng, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII - Hội nghị lịch sử, bàn về những quyết sách lịch sử trong giai đoạn Cách mạng mới của nước ta, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.

Bàn về các xu hướng phát triển của pháp luật Việt Nam trong kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Các xu hướng phát triển pháp luật là biểu hiện các quy luật phát triển pháp luật có ý nghĩa phương pháp luận, lý luận và thực tiễn quan trọng, gắn liền với việc xây dựng chiến lược phát triển pháp luật ở nước ta; các xu hướng phát triển pháp luật chịu sự tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau. Bài viết nghiên cứu, tìm hiểu các xu hướng phát triển pháp luật Việt Nam trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm