Thứ hai 16/06/2025 13:05
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Hoàn thiện quy định pháp luật về quyền kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự

Bài viết tập trung phân tích quy định pháp luật hiện hành về quyền kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự, đồng thời chỉ rõ những bất cập, vướng mắc trong các quy định pháp luật liên quan và đưa ra một số kiến nghị về vấn đề này.

1. Đặt vấn đề

Dưới góc độ ngôn ngữ học, thuật ngữ “kiến nghị” được hiểu là “nêu ý kiến và đề nghị về một việc chung để cơ quan có thẩm quyền xét và giải quyết”[1]. Trong khoa học luật tố tụng, “kiến nghị” là việc cơ quan, tổ chức, cá nhân đề nghị với các cơ quan tiến hành tố tụng khắc phục những vi phạm và thực hiện đúng những quy định của pháp luật tố tụng... Dưới góc độ khoa học kiểm sát, “kiến nghị” là quyền năng, là biện pháp pháp lý quan trọng của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh, thống nhất[2].

Kiến nghị là một trong những nhiệm vụ, quyền hạn khi thực hiện chức năng của Viện kiểm sát nhân dân được ghi nhận trong Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981 và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002. Tuy nhiên, phải đến Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 thì chế định kiến nghị mới được quy định cụ thể, rõ ràng và chặt chẽ hơn.

Theo quy định của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, khi thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể như sau: “Trường hợp hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp có vi phạm pháp luật ít nghiêm trọng không thuộc trường hợp kháng nghị quy định tại khoản 1 Điều này thì Viện kiểm sát nhân dân kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân đó khắc phục vi phạm và xử lý nghiêm minh người vi phạm pháp luật, nếu phát hiện sơ hở, thiếu sót trong hoạt động quản lý thì kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan khắc phục và áp dụng các biện pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm. Cơ quan, tổ chức cá nhân có liên quan có trách nhiệm xem xét, giải quyết, trả lời kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của pháp luật”[3].

Như vậy, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 đã quy định cụ thể 02 trường hợp mà Viện kiểm sát nhân dân ban hành kiến nghị, đó là: (i) Khi phát hiện hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp có vi phạm pháp luật ít nghiêm trọng (nếu vi phạm pháp luật nghiêm trọng thì ban hành kháng nghị); (ii) Khi phát hiện sơ hở, thiếu sót trong hoạt động quản lý.

2. Quy định pháp luật hiện hành về quyền kiến nghị của Viện Kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự

2.1. Đối tượng của quyền kiến nghị

Theo quy định của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, trong quá trình thực hiện chức năng kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, Viện kiểm sát nhân dân có quyền kiến nghị đối với quyết định, hành vi tố tụng của Tòa án, những người tiến hành tố tụng của Tòa án và của cơ quan tổ chức, cá nhân trong hoạt động tố tụng dân sự có vi phạm pháp luật và kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan khắc phục sơ hở, thiếu sót trong hoạt động quản lý và áp dụng các biện pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm[4].

Theo khoản 2 Điều 5 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 và quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị đối với các bản án, quyết định, văn bản, hành vi của các chủ thể tham gia hoạt động tố tụng dân sự gồm: Các hành vi tố tụng của Tòa án và hành vi của các chủ thể tham gia tố tụng dân sự; các bản án của Tòa án: Văn bản trả lại đơn khởi kiện giải quyết vụ án dân sự (Điều 194); thông báo thụ lý vụ án dân sự (Điều 196); quyết định chuyển vụ án dân sự cho Tòa án khác (Điều 41); quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời (khoản 2 Điều 139); quyết định trả lại đơn khởi kiện (Điều 194); quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm (Điều 220), đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm (Điều 290), đưa vụ án ra xét theo thủ tục rút gọn (Điều 319); quyết định hoãn phiên tòa sơ thẩm (Điều 233), hoãn phiên tòa phúc thẩm (Điều 296); quyết định sửa chữa, bổ sung bản án (nếu có) (Điều 268); quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự (Điều 214), tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm (Điều 288); quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự (Điều 216); quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự (Điều 217), đình chỉ xét xử phúc thẩm (Điều 289). Riêng kiến nghị theo thủ đặc biệt thì đối tượng của quyền kiến nghị là quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (Điều 358).

2.2. Hình thức, nội dung của quyền kiến nghị

Pháp luật hiện hành chưa quy định cụ thể về hình thức kiến nghị, song với quy định tại khoản 2 Điều 5 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 về đối tượng của quyền kiến nghị có thể là hành vi và các văn bản của cơ quan (Tòa án), tổ chức, cá nhân, có thể xác định hình thức thực hiện kiến nghị của Viện kiểm sát là đa dạng, linh hoạt để vừa bảo đảm tính pháp lý, vừa phù hợp với mỗi đối tượng cụ thể. Theo đó, hình thức kiến nghị có thể thực hiện bằng văn bản hoặc lời nói, ví dụ như: Tại phiên tòa, kiểm sát viên phát hiện thẩm phán chủ tọa phiên tòa vi phạm về điều khiển việc hỏi (hỏi không đúng thứ tự) thì kiểm sát viên yêu cầu (bằng lời nói) thẩm phán phải khắc phục ngay vi phạm.

Trường hợp kiến nghị bằng văn bản thường áp dụng đối với các vi phạm trong việc ban hành quyết định tố tụng của Tòa án, trong trường hợp này, Viện kiểm sát có thể thực hiện kiến nghị theo những phương thức sau: Kiến nghị trực tiếp đối với một vi phạm cụ thể; hoặc, tập hợp nhiều vi phạm để ban hành kiến nghị yêu cầu Tòa án, các chủ thể tham gia tố tụng khắc phục vi phạm. Khác với văn bản kháng nghị được Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định rất cụ thể, văn bản kiến nghị lại chưa được luật quy định rõ nội dung. Tuy nhiên, trên thực tế, việc soạn thảo văn bản kiến nghị sẽ bao gồm: Mẫu kiến nghị đối với các dạng vi phạm cụ thể và mẫu kiến nghị tổng hợp chung đối với nhiều vi phạm của Tòa án[5].

Trong văn bản kiến nghị cần nêu rõ: Căn cứ ban hành kiến nghị; nội dung vi phạm cần kiến nghị; vi phạm quy định điều luật và văn bản pháp luật cụ thể; đánh giá tính chất, hậu quả của vi phạm; yêu cầu Tòa án, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng của Tòa án khắc phục vi phạm và trả lời kiến nghị của Viện kiểm sát[6].

2.3. Căn cứ thực hiện quyền kiến nghị

Khi phát hiện hành vi, quyết định của Tòa án, thẩm phán, thẩm tra viên, thư ký, các chủ thể tham gia tố tụng dân sự khác có vi phạm pháp luật ít nghiêm trọng, không thuộc các trường hợp kháng nghị thì Viện kiểm sát thực hiện quyền kiến nghị. Ngoài ra, trong trường hợp các chủ thể tham gia giải quyết vụ việc dân sự không thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình cũng là căn cứ để Viện kiểm sát thực hiện quyền kiến nghị.

Riêng kiến nghị theo thủ tục đặc biệt, áp dụng khoản 1 Điều 358 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Viện kiểm sát nhân dân có quyền kiến nghị xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao khi có những căn cứ sau: (i) Có vi phạm pháp luật nghiêm trọng; (ii) Phát hiện tình tiết quan trọng mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung, quyết định mà Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, đương sự đã không thể biết được khi ra quyết định đó; (iii) Phát hiện tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định tuyên bố phá sản mà Tòa án nhân dân, người tham gia thủ tục phá sản không thể biết được khi Tòa án nhân dân ra quyết định.

2.4. Thẩm quyền thực hiện quyền kiến nghị

Theo quy định của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, chủ thể có quyền kiến nghị bao gồm Viện trưởng Viện kiểm sát và kiểm sát viên, tuy nhiên, pháp luật hiện hành lại chưa quy định cụ thể về vấn đề này nên tùy theo đặc điểm, tính chất và yêu cầu mà mỗi hành vi và quyết định tố tụng, căn cứ vào chủ thể có trách nhiệm thực hiện kiến nghị và nội dung kiến nghị để xác định trường hợp nào do Viện trưởng Viện kiểm sát ký văn bản kiến nghị, trường hợp nào kiểm sát viên có thẩm quyền kiến nghị. Về nguyên tắc, Viện trưởng có quyền đại diện Viện kiểm sát và với tư cách kiểm sát viên thực hiện mọi quyền kiến nghị mà pháp luật quy định cho Viện kiểm sát và kiểm sát viên, còn kiểm sát viên thực hiện những quyền kiến nghị mà pháp luật hiện hành trực tiếp quy định cho họ và một số trường hợp khác được quy định trong các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nhằm khắc phục những vi phạm trong hoạt động xét xử tại phiên tòa, phiên họp hoặc vi phạm của thẩm phán, thư ký Tòa án hoặc thẩm tra viên (nếu có)[7].

Theo Điều 20 Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao quy định việc phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân trong việc thi hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự (Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC), Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định thực hiện các quyền yêu cầu, quyền kiến nghị quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC, cụ thể: (i) Viện trưởng Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Chánh án Tòa án đang giải quyết vụ việc về quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời, Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kiến nghị với Chánh án Tòa án đã ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định[8]. (ii) Kiểm sát viên có quyền kiến nghị với thẩm phán về quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời tại phiên tòa; kiểm sát viên cũng có quyền kiến nghị với Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện[9]. Riêng kiến nghị theo thủ tục đặc biệt, thẩm quyền ban hành kiến nghị chỉ thuộc Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

2.5. Hậu quả của việc thực hiện quyền kiến nghị

Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 có quy định về trách nhiệm xem xét, giải quyết, trả lời kiến nghị của các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan trong việc thực hiện quyền kiến nghị của Viện kiểm sát. Theo đó, việc xem xét, giải quyết phải trên cơ sở đảm bảo nguyên tắc là phải khắc phục vi phạm pháp luật, xử lý nghiêm minh người vi phạm pháp luật hoặc áp dụng biện pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật[10].

Trên cơ sở đó, Viện kiểm sát theo dõi và kiểm tra việc thực hiện kiến nghị của Viện kiểm sát và yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành các kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân. Đây là vấn đề quan trọng nhằm bảo đảm hoạt động kiến nghị của Viện kiểm sát có hiệu lực trên thực tế, nếu các chủ thể đó vẫn không khắc phục vi phạm thì tùy từng trường hợp cụ thể, Viện kiểm sát tiếp tục thực hiện quyền kiến nghị lên cấp trên như quyền kiến nghị đối với quyết định trả lại đơn khởi kiện, nếu không đồng ý với quyết định giải quyết kiến nghị của Tòa án nhân dân cùng cấp thì kiểm sát viên có quyền kiến nghị với Tòa án cấp trên một cấp hoặc tiếp tục kiến nghị tối với Tòa án nhân dân cấp cao hoặc Tòa án nhân tối cao[11].

3. Một số vướng mắc, bất cập trong quy định pháp luật về quyền kiến nghị của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự

Thứ nhất, Điều 196 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định, trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án, thẩm phán phải thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp về việc Tòa án đã thụ lý vụ án. Có thể thấy, điều luật quy định việc Tòa án gửi thông báo thụ lý vụ việc cho Viện kiểm sát nhưng lại không quy định Tòa án phải gửi các tài liệu, chứng cứ kèm theo cho Viện kiểm sát. Vì vậy, trên thực tế, ngay từ khi Tòa án gửi thông báo và quyết định thụ lý vụ án cho Viện kiểm sát, Tòa án thường chỉ gửi thông báo thụ lý mà không gửi kèm theo tài liệu, chứng cứ liên quan đến thời hiệu khởi kiện, điều kiện khởi kiện, tư cách pháp lý của người khởi kiện, xác định thẩm quyền giải quyết vụ án, xác định quan hệ tranh chấp trong thông báo thụ lý nên đã gây khó khăn cho Viện kiểm sát trong kiểm sát việc thụ lý vụ án, chẳng hạn như, Tòa án tiến hành thụ lý vụ án không đúng các nội dung nói trên thì trong trường hợp này, Viện kiểm sát khó có thể phát hiện ra để kịp thời kiến nghị Tòa án khắc phục vi phạm.

Thứ hai, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 chỉ quy định về thời hạn giải quyết, trả lời kiến nghị tại các điều 41, 141, 194 và 319; còn lại các trường hợp khác chưa được quy định. Khoản 2 Điều 5 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 chỉ quy định các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan có trách nhiệm xem xét, giải quyết, trả lời kiến nghị của Viện kiểm sát theo quy định pháp luật. Theo quy định tại khoản 3 Điều 35 Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC thì trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được kiến nghị về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của Viện kiểm sát, Tòa án phải xem xét và trả lời bằng văn bản cho Viện kiểm sát đã kiến nghị biết. Trường hợp vụ việc phức tạp, cần có thêm thời gian thì Tòa án có văn bản thông báo lý do cho Viện kiểm sát biết và trả lời Viện kiểm sát trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được kiến nghị. Tuy nhiên, hiện nay, vẫn chưa có văn bản nào quy định chế tài xử lý đối với những vi phạm đã bị kiến nghị nhưng Tòa án chậm trả lời hoặc không trả lời bằng văn bản cho Viện kiểm sát biết, dẫn đến tình trạng vi phạm diễn ra thường xuyên, lặp đi, lặp lại.

Thứ ba, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành chưa quy định tiêu chí xác định mức độ vi phạm để thực hiện quyền kiến nghị. Bên cạnh đó, thời hạn giải quyết kiến nghị vi phạm pháp luật và kiến nghị phòng ngừa của Viện kiểm sát chưa được quy định đầy đủ, toàn diện và chưa có sự thống nhất. Điều này làm cho việc xác định căn cứ để kháng nghị hay kiến nghị chưa thực sự rõ ràng; một số nhận định còn mang tính chủ quan của người đề xuất kiến nghị.

Thứ tư, trên thực tế, một bộ phận kiểm sát viên còn chủ quan, chưa phát huy hết tinh thần trách nhiệm, kiến nghị chưa có sự đầu tư, phân tích kỹ lưỡng, sâu sắc nên chưa đạt được hiệu quả, mục đích, thiếu sức thuyết phục các cơ quan, tổ chức trong việc chấp nhận và khắc phục. Một số trường hợp, kiểm sát viên còn có tư tưởng nể nang, ngại va chạm nên khi phát hiện vi phạm đã không kiên quyết tham mưu lãnh đạo để ban hành kiến nghị khắc phục mà chỉ dừng lại ở việc trao đổi, góp ý sửa chữa.

4. Một số kiến nghị

Thứ nhất, như đã phân tích ở phần trên, việc Tòa án chỉ gửi thông báo thụ lý cho Viện kiểm sát mà không gửi kèm chứng cứ, tài liệu có liên quan đến nội dung vụ án có thể dẫn đến việc Viện kiểm sát cùng cấp không phát hiện kịp thời những sai phạm của Tòa án. Vì vậy, theo tác giả, cần bổ sung quy định tại khoản 1 Điều 196 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 theo hướng: “Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án, thẩm phán phải thông báo bằng văn bản cho nguyên đơn, bị đơn, cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết vụ án và gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp thông báo thụ lý cùng với các tài liệu, chứng cứ có liên quan về việc thụ lý vụ án của Tòa án”.

Thứ hai, theo tác giả, để thống nhất về thời hạn Tòa án giải quyết, trả lời kiến nghị của Viện kiểm sát, cần quy định rõ trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 theo hướng: “Tòa án phải trả lời kiến nghị cho Viện kiểm sát trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được kiến nghị của Viện kiểm sát, Tòa án phải trả lời và nêu ý kiến của mình về việc chấp nhận bản kiến nghị hay không chấp nhận bản kiến nghị”. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu để bổ sung các điều, khoản liên quan đến chế tài xử lý đối với những vi phạm đã bị kiến nghị nhưng Tòa án chậm trả lời hoặc không trả lời bằng văn bản cho Viện kiểm sát biết.

Thứ ba, Viện kiểm sát cần chú trọng, tăng cường kiểm sát về thời hạn tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự bằng cách kiểm sát vụ án ngay từ khi Tòa thông báo thụ lý. Khi nhận văn bản thông báo thụ lý vụ án, kiểm sát viên cần lưu ý nội dung, những vấn đề cụ thể mà người khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết. Nói cách khác, phải xác định ngay từ đầu quan hệ tranh chấp đơn giản hay phức tạp để chủ động theo dõi quá trình thực hiện các thủ tục tố tụng. Đối với những vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng, tính chất và mức độ tranh chấp không phức tạp, Tòa án không đưa ra xét xử thì cần chú trọng kiểm sát thời hạn Tòa án ra quyết định, thời hạn gửi quyết định cho đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp. Đối với những vụ án Tòa án đưa ra xét xử (phần lớn là những vụ tranh chấp liên quan đến nhà, đất…), đây là những vụ có quan hệ tranh chấp phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực, được điều chỉnh bởi nhiều văn bản pháp luật khác nhau, có nhiều đương sự tham gia tố tụng, kiểm sát viên phải chủ động theo dõi thời hạn tố tụng, không để vụ án bị kéo dài; nếu phát hiện vi phạm về quá thời hạn thì kiến nghị kịp thời để Tòa án khắc phục ngay.

Thứ tư, nhằm kịp thời phát hiện vi phạm để ban hành kiến nghị, ngay sau khi nhận được bản án, quyết định và các văn bản tố tụng khác của Tòa án, kiểm sát viên được phân công phải chủ động kiểm sát về hình thức và nội dung của các văn bản, đồng thời đối chiếu với mẫu biểu của Tòa án nhân dân tối cao, với quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2014. Trong trường hợp xác định được dạng vi phạm, kiểm sát viên chủ động, kịp thời báo cáo, tham mưu lãnh đạo thực hiện quyền kiến nghị. Đối với những vi phạm nghiêm trọng, cần phải khắc phục ngay, sau đó sẽ ban hành kiến nghị trực tiếp đối với vụ việc cụ thể. Đối với những vi phạm về thời hạn, kiểm sát viên cập nhật vào sổ theo dõi riêng để tổng hợp vi phạm kiến nghị vào 06 tháng đầu năm hoặc cả năm theo quy định.

Thứ năm, nâng cao kỹ năng kiểm sát việc thực hiện các yêu cầu trong bản kiến nghị. Sau khi ban hành kiến nghị, lãnh đạo đơn vị chỉ đạo kiểm sát viên trao đổi với Tòa án, cơ quan bị kiến nghị có văn bản trả lời tiếp thu theo yêu cầu trong kiến nghị. Đồng thời, kiểm sát lại các tài liệu trong hồ sơ về việc khắc phục vi phạm của Tòa án nếu là dạng vi phạm cần khắc phục, từ đó, nâng cao hiệu quả, chất lượng của bản kiến nghị Viện kiểm sát đã ban hành./.

TS. Nguyễn Ngọc Anh Đào

Khoa Luật Kinh tế, Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh

[1]. Từ điển Tiếng Việt (2000), Nxb. Thanh niên, tr. 448.

[2]. Tài liệu chương trình bồi dưỡng kỹ năng kiểm sát của Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (2017), tr. 4.

[3]. Khoản 2 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.

[4]. Khoản 2 Điều 5 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.

[5]. Lê Thanh Dương (2018), “Về quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị của Viện Kiểm sát trong tố tụng dân sự”, Tạp chí Kiểm sát, số 12/2018, tr. 25.

[6]. Mẫu số 10 Quyết định số 204/QĐ-VKSTC ngày 01/6/2017.

[7]. Tài liệu chương trình bồi dưỡng kỹ năng kiểm sát của Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (2017), tr. 15.

[8] Khoản 1 Điều 319 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[9]. Khoản 1 Điều 194 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[10]. Tài liệu chương trình bồi dưỡng kỹ năng kiểm sát của Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (2017), tr. 20.

[11]. Khoản 7 Điều 194 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 2 (Số 403), tháng 4/2024)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Khi thực hiện sắp xếp các đơn vị hành chính và thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp, việc đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động của chính quyền địa phương nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, thích ứng với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới là điều cần thiết. Các địa phương sau sắp xếp đứng trước những yêu cầu cấp thiết về đổi mới, vận hành hiệu quả mô hình tổ chức chính quyền địa phương. Bài viết đề xuất một số kiến nghị để tiếp tục đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động chính quyền địa phương, góp phần bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của nền công vụ trong bối cảnh mới.
Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 194/2025/QH15 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo cơ sở pháp lý thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Bài viết nghiên cứu, phân tích về những nội dung cần bổ sung vào chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để thực hiện việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đang lấy ý kiến nhân dân để thực hiện các chủ trương của Đảng về việc sắp xếp lại chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, không tổ chức cấp huyện. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi bộ máy hành chính phải được tổ chức khoa học, tinh, gọn, minh bạch, hiệu quả nhằm tạo đà cho đất nước phát triển càng trở lên cấp thiết. Xuất phát từ thực trạng tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã và đòi hỏi của thực tiễn, bài viết đề xuất một số gợi mở về đổi mới tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã trong thời gian tới.
Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội như hiện nay, việc tổ chức lại bộ máy chính quyền theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (dự thảo Nghị quyết) là yêu cầu tất yếu. Điều này đòi hỏi phải cải cách toàn diện cả về cấu trúc chiều ngang (sáp nhập địa giới hành chính) và chiều dọc (rút gọn cấp chính quyền trung gian) nhằm mở rộng không gian phát triển, tăng cường tính liên kết giữa trung ương và cơ sở, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân. Bài viết nghiên cứu mô hình tổ chức chính quyền địa phương gắn với địa bàn cụ thể dưới góc nhìn từ cơ sở (Tây Nguyên) để đưa ra những phân tích, nhận định và đề xuất giải pháp cho việc cải cách chính quyền địa phương theo dự thảo Nghị quyết.
So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

Bài viết phân tích, nghiên cứu thiết chế chính quyền địa phương ở Cộng hòa Pháp và Việt Nam; so sánh một số điểm tương đồng, khác biệt về tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương theo hiến pháp của hai nước. Trên cơ sở mô hình tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương của Cộng hòa Pháp, bài viết đề xuất một số kiến nghị để Việt Nam nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cuộc “cách mạng” về tinh gọn bộ máy theo các chủ trương, chính sách của Đảng và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.
Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử. Trên cơ sở nhận diện những khó khăn, vướng mắc, bài viết đề xuất các khuyến nghị để xây dựng khung pháp lý toàn diện, hiệu quả hơn trong việc tích hợp trí tuệ nhân tạo vào công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời gian tới.

Trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bài viết phân tích, đánh giá một số khía cạnh pháp lý, kinh tế của chế độ trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện về chế độ trách nhiệm hữu hạn trong pháp luật doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam.

Hoàn thiện quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dùng vào việc thờ cúng

Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng qua các thời kỳ và thực tiễn áp dụng pháp luật qua công tác xét xử của Tòa án đối với tranh chấp liên quan đến chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng, từ đó, đưa ra một số gợi mở nhằm hoàn thiện chế định này.
Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Sau hơn 11 năm triển khai thi hành, Hiến pháp năm 2013 đã tạo cơ sở hiến định quan trọng cho việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Bên cạnh những kết quả đạt được, hiện nay, việc thực hiện các quy định của Hiến pháp và pháp luật liên quan đến Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và chính quyền địa phương vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện nhằm để đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Ủy ban Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 ban hành Kế hoạch tổ chức lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Việc lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết nhằm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, huy động trí tuệ, tâm huyết và tạo sự đồng thuận, thống nhất cao của toàn dân trong việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013, bảo đảm Hiến pháp phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của Nhân dân.
Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013 là một sự kiện chính trị và pháp lý trọng đại, dù ở phạm vi, quy mô nào cũng là một công việc rất hệ trọng, thiêng liêng. Do vậy, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp phải được tiến hành thận trọng, khách quan, dân chủ, khoa học, hiệu quả với sự tham gia tích cực, đồng bộ của các cơ quan, tổ chức, các chuyên gia, nhà khoa học và toàn thể Nhân dân theo đúng chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính  – bổ sung nhiều quy định mới

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính – bổ sung nhiều quy định mới

Trên cơ sở phát biểu đề dẫn của đồng chí Trương Thế Côn, Tổng Biên tập Tạp chí Dân chủ và pháp luật, phát biểu của đồng chí Hồ Quang Huy, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính về sự cần thiết, quá trình soạn thảo và định hướng xây dựng Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm pháp luật hành chính, Hội thảo khoa học “Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi pham hành chính” đã tiếp nhận được gần 20 ý kiến phát biểu và hơn 10 bài nghiên cứu chuyên sâu. Các bài viết và ý kiến phát biểu tại Hội thảo sẽ được Tạp chí Dân chủ và Pháp luật và Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính tổng hợp, xem xét để gửi tới cá nhân, cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong quá trình xây dựng, quyết định chính sách.
Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp.
Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp  nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV khai mạc sáng ngày 05/5/2025. Đây là Kỳ họp có nhiều nội dung quan trọng, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII - Hội nghị lịch sử, bàn về những quyết sách lịch sử trong giai đoạn Cách mạng mới của nước ta, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm