Chủ nhật 29/06/2025 10:33
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Hoàn thiện quy định về quyền nhận thế chấp nhà ở của chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Về việc nhận thế chấp nhà ở của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, pháp luật hiện hành đang tồn tại những quy định chưa thống nhất, gây nhiều khó khăn trong quá trình hoạt động của chi nhánh ngân hành nước ngoài tại Việt Nam. Trong bài viết này, tác giả phân tích sự chưa thống nhất đó, đồng thời đề xuất giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật.



Cho vay là một trong những hình thức cấp tín dụng mà chi nhánh ngân hàng nước ngoài được phép thực hiện[1]. Trong hoạt động cho vay, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và khách hàng có thể thỏa thuận việc áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay hoặc không áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay[2]. Nếu chi nhánh ngân hàng nước ngoài và khách hàng thỏa thuận việc áp dụng biện pháp bảo đảm tiền vay thì rủi ro thất thoát nguồn vốn tín dụng của chi nhánh ngân hàng nước ngoài sẽ thấp hơn. Chính vì vậy, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài thường yêu cầu bên đi vay thế chấp tài sản của chính bên đi vay hoặc tài sản của bên thứ ba. Tài sản thế chấp có thể là bất động sản và động sản hiện có hoặc bất động sản và động sản hình thành trong tương lai. Trong đó, nhà ở đã hình thành hoặc nhà ở sẽ hình thành trong tương lai là một loại tài sản khá phổ biến mà bên đi vay thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ cho chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Tuy nhiên, quy định pháp luật hiện hành vẫn còn một số mâu thuẫn trong việc cho phép chi nhánh ngân hàng nước ngoài nhận thế chấp tài sản là nhà ở đã gây khó khăn trong quá trình hoạt động của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.

1. Quyền nhận thế chấp nhà ở đã hình thành của chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Theo quy định tại Điều 144 Luật Nhà ở năm 2014, chủ sở hữu là tổ chức và cá nhân có quyền thế chấp nhà ở thuộc quyền sở hữu của mình. Cụ thể, nếu chủ sở hữu nhà ở là tổ chức thì chủ sở hữu được thế chấp nhà ở tại tổ chức tín dụng đang hoạt động tại Việt Nam (khoản 1 Điều 144) và nếu chủ sở hữu nhà ở là cá nhân thì được thế chấp nhà ở tại tổ chức tín dụng, tổ chức kinh tế đang hoạt động tại Việt Nam hoặc cá nhân theo quy định của pháp luật (khoản 2 Điều 144).

Luật Nhà ở năm 2014 không có định nghĩa về tổ chức tín dụng, do vậy, cần căn cứ vào quy định của pháp luật chuyên ngành để xác định đối tượng cụ thể. Theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Luật Các tổ chức tín dụng), tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân. Luật Các tổ chức tín dụng phân loại cụ thể các loại hình tổ chức tín dụng như sau:

- Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã (khoản 2 Điều 4).

- Tổ chức tín dụng phi ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện một hoặc một số hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này, trừ các hoạt động nhận tiền gửi của cá nhân và cung ứng các dịch vụ thanh toán qua tài khoản của khách hàng. Tổ chức tín dụng phi ngân hàng bao gồm công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác (khoản 4 Điều 4).

- Tổ chức tài chính vi mô là loại hình tổ chức tín dụng chủ yếu thực hiện một số hoạt động ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của các cá nhân, hộ gia đình có thu nhập thấp và doanh nghiệp siêu nhỏ (khoản 5 Điều 4).

- Quỹ tín dụng nhân dân là tổ chức tín dụng do các pháp nhân, cá nhân và hộ gia đình tự nguyện thành lập dưới hình thức hợp tác xã để thực hiện một số hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này và Luật Hợp tác xã nhằm mục tiêu chủ yếu là tương trợ nhau phát triển sản xuất, kinh doanh và đời sống (khoản 6 Điều 4).

Căn cứ việc phân loại nêu trên, có thể xác định rằng, tổ chức tín dụng không bao gồm chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

Vậy chi nhánh ngân hàng nước ngoài có thể được xem là tổ chức kinh tế đang hoạt động tại Việt Nam hay không? Luật Nhà ở năm 2014 không có định nghĩa cụ thể tổ chức kinh tế. Tham chiếu đến các quy định có liên quan trong pháp luật Việt Nam, cụ thể, khoản 27 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 quy định tổ chức kinh tế bao gồm doanh nghiệp, hợp tác xã và tổ chức kinh tế khác theo quy định của pháp luật về dân sự, trừ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và khoản 16 Điều 3 Luật Đầu tư năm 2014 quy định tổ chức kinh tế là tổ chức được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam, gồm doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và các tổ chức khác thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh. Căn cứ vào các quy định này cũng khó có thể khẳng định rằng tổ chức kinh tế bao gồm ngân hàng nước ngoài.

Ngoài ra, Luật Nhà ở năm 2014 cũng quy định, nếu bên nhận thế chấp nhà ở là tổ chức thì phải có tư cách pháp nhân (khoản 3 Điều 119). Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 9 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng thì chi nhánh ngân hàng nước ngoài chỉ là đơn vị phụ thuộc của ngân hàng nước ngoài, không có tư cách pháp nhân.

Do vậy, căn cứ vào các quy định trên, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được nhận thế chấp tài sản là nhà ở đã hình thành từ bên đi vay là các cá nhân và tổ chức.

2. Quyền nhận thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai của chi nhánh ngân hàng nước ngoài

Theo quy định tại khoản 2 Điều 147 Luật Nhà ở năm 2014, tổ chức, cá nhân xây dựng nhà ở hình thành trong tương lai trên thửa đất ở hợp pháp của mình; tổ chức, cá nhân mua nhà ở hình thành trong tương lai trong dự án đầu tư xây dựng nhà ở của chủ đầu tư được thế chấp nhà ở này tại “tổ chức tín dụng” đang hoạt động tại Việt Nam để vay vốn phục vụ cho xây dựng nhà ở hoặc để mua chính nhà ở đó.

Như trên đã phân tích, tổ chức tín dụng không bao gồm chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Do đó, tổ chức, cá nhân sẽ không được phép thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai tại chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Nói cách khác, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được nhận thế chấp tài sản là nhà ở hình thành trong tương lai từ bên đi vay là các cá nhân và tổ chức.

Tương tự khoản 2 Điều 147 Luật Nhà ở năm 2014, khoản 3 Điều 3 Thông tư số 26/2015/TT-NHNN ngày 09/12/2015 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn trình tự, thủ tục thế chấp và giải chấp tài sản là dự án đầu tư xây dựng nhà ở, nhà ở hình thành trong tương lai (Thông tư số 26/2015/TT-NHNN) cũng quy định rằng, tổ chức, cá nhân xây dựng nhà ở hình thành trong tương lai trên thửa đất ở hợp pháp của mình được thế chấp nhà ở này tại “tổ chức tín dụng” để vay vốn phục vụ cho xây dựng nhà ở đó; tổ chức, cá nhân mua nhà ở hình thành trong tương lai trong dự án đầu tư xây dựng nhà ở của chủ đầu tư được thế chấp nhà ở này tại “tổ chức tín dụng” để mua chính nhà ở đó.

Tuy nhiên, khác với quy định tại khoản 1 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng (tổ chức tín dụng không bao gồm chi nhánh ngân hàng nước ngoài), khái niệm tổ chức tín dụng theo khoản 1 Điều 2 Thông tư số 26/2015/TT-NHNN bao gồm cả chi nhánh ngân hàng nước ngoài được thành lập và hoạt động theo Luật Các tổ chức tín dụng[3].

Điều đó có nghĩa là, nếu căn cứ vào khoản 2 Điều 147 Luật Nhà ở năm 2014 và khoản 1 Điều 4 Luật Các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được nhận thế chấp tài sản là nhà ở hình thành trong tương lai từ bên đi vay là các cá nhân và tổ chức. Tuy nhiên, nếu căn cứ vào phân loại tổ chức tín dụng theo khoản 1 Điều 2 Thông tư số 26/2015/TT-NHNN, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được nhận thế chấp tài sản là nhà ở hình thành trong tương lai từ bên đi vay là các cá nhân và tổ chức[4].

3. Một số bất cập và kiến nghị

Như đã phân tích ở trên, sự mâu thuẫn của các quy định đã dẫn đến cách hiểu khác nhau, mặc dù cùng là loại nhà ở nhưng nếu căn cứ vào Luật Nhà ở năm 2014 và Luật Các tổ chức tín dụng thì chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được nhận thế chấp tài sản là nhà ở cho dù là nhà ở đã hình thành hay hình thành trong tương lai từ bên đi vay là các cá nhân và tổ chức. Trong khi đó, nếu căn cứ vào Thông tư số 26/2015/TT-NHNN thì chi nhánh ngân hàng nước ngoài lại được nhận thế chấp tài sản là nhà ở hình thành trong tương lai từ bên đi vay là các cá nhân và tổ chức.

Trong quá trình tư vấn cho các khách hàng là chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, tác giả đã gặp một trường hợp như sau: Bên đi vay dùng một căn nhà hình thành trong tương lai để thế chấp bảo đảm cho khoản vay tại một chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Sau khi căn nhà này đã hình thành, bên đi vay vẫn chưa đến hạn phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Để bảo đảm cho khoản vay, bên đi vay tiếp tục sử dụng căn nhà đã hình thành này để thế chấp cho khoản vay. Nếu căn cứ quy định của Luật Nhà ở và Luật Các tổ chức tín dụng, vì căn nhà này đã hình thành nên chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được tiếp tục nhận thế chấp đối với căn nhà này và phải yêu cầu bên đi vay thế chấp bằng một tài sản khác. Trong trường hợp bên đi vay không còn tài sản nào khác ngoài căn nhà để thế chấp cho khoản vay thì chi nhánh ngân hàng nước ngoài sẽ lấy gì để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ của bên đi vay trong khi bên đi vay đang giữ một số tiền lớn của bên cho vay? Việc tồn tại các quy định chưa thống nhất như vậy đã gây nhiều lúng túng, khó khăn trong quá trình cho vay và nhận thế chấp tài sản là nhà ở của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam.

Do vậy, để có sự thống nhất trong việc áp dụng quy định và tránh gây khó khăn cho các chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, tác giả cho rằng, cần sửa đổi quy định hiện hành theo một trong hai hướng sau:

(i) Sửa đổi định nghĩa “tổ chức tín dụng” quy định tại Luật Các tổ chức tín dụng, Thông tư số 26/2015/TT-NHNN và Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng được thống nhất với nhau và sửa đổi Thông tư số 26/2015/TT-NHNN theo hướng không cho phép chi nhánh ngân hàng nước ngoài nhận thế chấp tài sản là nhà ở đã hình thành trong tương lai để phù hợp với Luật Nhà ở năm 2014.

(ii) Sửa đổi quy định tại Luật Nhà ở theo hướng quy định rõ chi nhánh ngân hàng nước ngoài là đối tượng được phép nhận thế chấp nhà ở đã hình thành và nhà ở hình thành trong tương lai để thống nhất với các quy định tại Thông tư số 26/2015/TT-NHNN và không gây khó khăn cho các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, cụ thể như sau:

“Điều 144. Bên thế chấp và bên nhận thế chấp nhà ở

1. Chủ sở hữu nhà ở là tổ chức được thế chấp nhà ở tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam.

2. Chủ sở hữu nhà ở là cá nhân được thế chấp nhà ở tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức kinh tế đang hoạt động tại Việt Nam hoặc cá nhân theo quy định của pháp luật”.

“Điều 147. Thế chấp dự án đầu tư xây dựng nhà ở và thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai

...

2. Tổ chức, cá nhân xây dựng nhà ở hình thành trong tương lai trên thửa đất ở hợp pháp của mình; tổ chức, cá nhân mua nhà ở hình thành trong tương lai trong dự án đầu tư xây dựng nhà ở của chủ đầu tư được thế chấp nhà ở này tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam để vay vốn phục vụ cho xây dựng nhà ở hoặc để mua chính nhà ở đó”.

Luật sư Hà Minh Long
Công ty Luật TNHH Yoon & Yang (Việt Nam)


[1] Khoản 1 Điều 123 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[2] Khoản 1 Điều 15 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng.

[3] Theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng, tổ chức tín dụng cũng bao gồm chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

[4] Khoản 3 Điều 3 Thông tư 26/2015/TT-NHNN.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Hoàn thiện khung pháp lý về bảo vệ dữ liệu cá nhân của trẻ em trong môi trường số ở Việt Nam hiện nay

Hoàn thiện khung pháp lý về bảo vệ dữ liệu cá nhân của trẻ em trong môi trường số ở Việt Nam hiện nay

Trong bối cảnh công nghệ số phát triển mạnh mẽ, việc bảo vệ dữ liệu cá nhân nói chung, đặc biệt là dữ liệu của trẻ em - đối tượng dễ bị tổn thương - trở thành vấn đề cấp thiết. Thời gian qua, mặc dù Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng trong việc xây dựng khung pháp lý bảo vệ dữ liệu cá nhân trẻ em nhưng thực tế vẫn còn nhiều hạn chế, thách thức cần giải quyết. Bài viết tập trung phân tích khung pháp lý hiện hành của Việt Nam về bảo vệ dữ liệu cá nhân trẻ em, đánh giá những kết quả đạt được và hạn chế, đồng thời, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện nhằm bảo đảm quyền và lợi ích tốt nhất của trẻ em trong môi trường số.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, quyền công dân sau hơn 10 năm thi hành Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, quyền công dân sau hơn 10 năm thi hành Hiến pháp năm 2013

Thực tiễn cho thấy, việc thể chế hóa chế định quyền con người, quyền công dân sau hơn 10 năm Thi hành Hiến pháp năm 2013 đã đạt được những thành tựu đáng kể nhưng cũng còn hạn chế, khó khăn nhất định. Để tiếp tục hoàn thiện pháp luật về quyền con người, quyền công dân cần thực hiện đúng, đầy đủ trách nhiệm theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và thể chể hóa các chủ trương, chính sách mới của Đảng về đổi mới tư duy xây dựng, thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Giới hạn, điều kiện áp dụng hình phạt theo luật nhân quyền quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Giới hạn, điều kiện áp dụng hình phạt theo luật nhân quyền quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Bài viết phân tích các quy định về giới hạn và điều kiện áp dụng hình phạt trong luật nhân quyền quốc tế, qua đó, chứng minh luật nhân quyền quốc tế đặt ra những giới hạn và điều kiện về bản chất, mức độ, đối tượng, thủ tục áp dụng hình phạt trong tố tụng hình sự nhằm ngăn chặn sự lạm quyền trong việc phòng, chống tội phạm và thúc đẩy tính nhân đạo của tư pháp hình sự. Đồng thời, bài viết cũng khảo sát, nghiên cứu kinh nghiệm của Cộng hòa liên bang Đức, Na Uy, Canada và Nam Phi, qua đó, gợi ý một số cải cách để Việt Nam có thể tham khảo, tiếp thu có chọn lọc góp phần hoàn thiện pháp luật về áp dụng hình phạt tiệm cận hơn với các tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế về vấn đề này.
Hoàn thiện quy định về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính tại dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính

Hoàn thiện quy định về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính tại dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính

Xử phạt vi phạm hành chính là một trong những công cụ hữu hiệu để Nhà nước đấu tranh và phòng ngừa vi phạm hành chính. Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính đang được sửa đổi và dự kiến thông qua tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV với nhiều điểm mới, đặc biệt là các quy định liên quan đến thủ tục xử phạt vi phạm hành chính. Bài viết phân tích, luận giải một số vấn đề như điều kiện xử phạt hành chính không lập biên bản, quyền giải trình đối với trường hợp xử phạt theo thủ tục không lập biên bản, thời hạn chuyển biên bản vi phạm hành chính đến người có thẩm quyền xử phạt, về người chứng kiến ký biên bản vi phạm hành chính và kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy về định thủ tục xử phạt vi phạm hành chính tại dự thảo Luật.
Hoàn thiện quy định pháp luật về thủ tục giải trình trong xử phạt vi phạm hành chính

Hoàn thiện quy định pháp luật về thủ tục giải trình trong xử phạt vi phạm hành chính

Bài viết tập trung phân tích những vướng mắc, bất cập của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2017, 2020, 2022 (Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012) về thủ tục giải trình trong xử phạt vi phạm hành chính, từ đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật liên quan.
Thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong bối cảnh tinh gọn bộ máy nhà nước

Thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong bối cảnh tinh gọn bộ máy nhà nước

Theo quy định pháp luật, thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thuộc về Tòa án nhân dân cấp huyện. Để áp dụng biện pháp này, các cơ quan hành chính phải lập hồ sơ đề nghị để Tòa án nhân dân cấp huyện xem xét, quyết định cho phép thực hiện. Bài viết nghiên cứu, phân tích về thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đồng thời, đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật trong bối cảnh tinh gọn bộ máy nhà nước.
Bất cập trong nguyên tắc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức và đề xuất, kiến nghị

Bất cập trong nguyên tắc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức và đề xuất, kiến nghị

Bài viết chỉ ra những bất cập về nguyên tắc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức và từ đó, đề xuất kiến nghị giúp khắc phục bất cập trong công tác xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức.
Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Khi thực hiện sắp xếp các đơn vị hành chính và thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp, việc đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động của chính quyền địa phương nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, thích ứng với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới là điều cần thiết. Các địa phương sau sắp xếp đứng trước những yêu cầu cấp thiết về đổi mới, vận hành hiệu quả mô hình tổ chức chính quyền địa phương. Bài viết đề xuất một số kiến nghị để tiếp tục đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động chính quyền địa phương, góp phần bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của nền công vụ trong bối cảnh mới.
Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 194/2025/QH15 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo cơ sở pháp lý thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Bài viết nghiên cứu, phân tích về những nội dung cần bổ sung vào chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để thực hiện việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đang lấy ý kiến nhân dân để thực hiện các chủ trương của Đảng về việc sắp xếp lại chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, không tổ chức cấp huyện. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi bộ máy hành chính phải được tổ chức khoa học, tinh, gọn, minh bạch, hiệu quả nhằm tạo đà cho đất nước phát triển càng trở lên cấp thiết. Xuất phát từ thực trạng tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã và đòi hỏi của thực tiễn, bài viết đề xuất một số gợi mở về đổi mới tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã trong thời gian tới.
Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội như hiện nay, việc tổ chức lại bộ máy chính quyền theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (dự thảo Nghị quyết) là yêu cầu tất yếu. Điều này đòi hỏi phải cải cách toàn diện cả về cấu trúc chiều ngang (sáp nhập địa giới hành chính) và chiều dọc (rút gọn cấp chính quyền trung gian) nhằm mở rộng không gian phát triển, tăng cường tính liên kết giữa trung ương và cơ sở, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân. Bài viết nghiên cứu mô hình tổ chức chính quyền địa phương gắn với địa bàn cụ thể dưới góc nhìn từ cơ sở (Tây Nguyên) để đưa ra những phân tích, nhận định và đề xuất giải pháp cho việc cải cách chính quyền địa phương theo dự thảo Nghị quyết.
So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

Bài viết phân tích, nghiên cứu thiết chế chính quyền địa phương ở Cộng hòa Pháp và Việt Nam; so sánh một số điểm tương đồng, khác biệt về tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương theo hiến pháp của hai nước. Trên cơ sở mô hình tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương của Cộng hòa Pháp, bài viết đề xuất một số kiến nghị để Việt Nam nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cuộc “cách mạng” về tinh gọn bộ máy theo các chủ trương, chính sách của Đảng và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.
Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử. Trên cơ sở nhận diện những khó khăn, vướng mắc, bài viết đề xuất các khuyến nghị để xây dựng khung pháp lý toàn diện, hiệu quả hơn trong việc tích hợp trí tuệ nhân tạo vào công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời gian tới.

Trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bài viết phân tích, đánh giá một số khía cạnh pháp lý, kinh tế của chế độ trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện về chế độ trách nhiệm hữu hạn trong pháp luật doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam.

Hoàn thiện quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dùng vào việc thờ cúng

Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng qua các thời kỳ và thực tiễn áp dụng pháp luật qua công tác xét xử của Tòa án đối với tranh chấp liên quan đến chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng, từ đó, đưa ra một số gợi mở nhằm hoàn thiện chế định này.

Theo dõi chúng tôi trên:

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm