Thứ hai 29/09/2025 03:58
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Hoạt động giám sát của Quốc hội trong thực hiện điều ước quốc tế - Một số tồn tại, hạn chế và kiến nghị, đề xuất hoàn thiện

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích, đánh giá một số tồn tại, hạn chế trong hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam đối với việc thực hiện điều ước quốc tế, từ đó, đưa ra một số kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, bảo đảm công tác giám sát thực hiện điều ước quốc tế ngày càng đi vào thực chất, hiệu quả.

Từ khóa: giám sát; điều ước quốc tế; Quốc hội.

Abstract: The article studies, analyzes and evaluates some shortcomings and limitations in the supervision activities of the National Assembly of Vietnam regarding the implementation of international treaties, thereby making some recommendations and proposals to improve the legal framework, ensuring that the supervision of the implementation of international treaties is increasingly practical and effective.

Keywords: Supervision; international treaties; National Assembly.

Đặt vấn đề

Trong những năm qua, thực hiện chủ trương mở cửa, hội nhập quốc tế, Việt Nam đã luôn tích cực, chủ động tham gia ngày càng sâu, rộng vào các tổ chức, định chế quốc tế, ký kết nhiều điều ước quốc tế thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong bối cảnh đó, nếu coi việc ký kết các điều ước quốc tế là bước đi đầu tiên, mở đường cho Việt Nam “đến gần hơn” với quốc tế thì việc tuân thủ nghiêm ngặt “luật chơi chung” mới thực sự là bước đi thực chất để Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng, toàn diện, góp phần khẳng định quyết tâm và củng cố vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Để công tác thực hiện điều ước quốc tế đi vào nền nếp, bên cạnh vai trò của các chủ thể trực tiếp thực hiện và bị tác động bởi điều ước quốc tế thì vai trò giám sát của Quốc hội đối với công tác này là đặc biệt quan trọng.

1. Trách nhiệm của các quốc gia trong việc tuân thủ điều ước quốc tế

Theo Điều 24 Công ước Viên về Luật Điều ước quốc tế năm 1969 (Công ước Viên), việc thực hiện điều ước quốc tế được đặt ra kể từ khi điều ước quốc tế đó chính thức có hiệu lực. Ngoài ra, một số điều ước quốc tế hoặc một phần của một điều ước quốc tế được thực hiện trước ngày có hiệu lực trong các trường hợp: (i) nếu điều ước quốc tế đó có quy định; (ii) nếu những quốc gia tham gia đàm phán có thỏa thuận như thế bằng một cách khác (khoản 1 Điều 25 Công ước Viên). Để bảo đảm điều ước quốc tế được thực hiện nghiêm chỉnh, Công ước Viên đặt ra những nguyên tắc cơ bản sau: (i) nguyên tắc Pacta sunt servanda (mọi điều ước đã có hiệu lực đều ràng buộc các bên tham gia và phải được các bên thi hành thiện chí); (ii) một bên không thể viện dẫn những quy định của pháp luật trong nước của mình làm lý do cho việc không thi hành một điều ước; (iii) những quy định của một điều ước sẽ không ràng buộc đối với các bên về mọi hành vi hay sự kiện xảy ra trước ngày điều ước đó có hiệu lực, trừ khi có một ý định khác xuất phát từ điều ước hoặc được thể hiện bằng một cách khác; (iv) một điều ước sẽ ràng buộc mỗi bên trong phạm vi toàn lãnh thổ của bên đó, trừ khi có một ý định khác xuất phát từ điều ước hoặc thể hiện bằng một cách khác (các điều 26, 27, 28, 29 Công ước Viên).

Thực tiễn quá trình xây dựng các điều ước quốc tế cho thấy, bên cạnh các quy định mang tính nguyên tắc về quyền, nghĩa vụ của các thành viên, cách thức triển khai, thực hiện các cam kết trong điều ước quốc tế thì hầu hết các văn kiện này đều quy định về biện pháp giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện điều ước quốc tế đó[1]. Việc giải quyết các bất đồng hay tranh chấp có thể được thực hiện bởi các hình thức khác nhau, tùy thuộc vào ý chí của các bên thống nhất trong quá trình xây dựng điều ước quốc tế, có thể là biện pháp hòa giải không có sự tham gia của bên thứ ba hoặc có thể bằng những thiết chế mạnh hơn như trọng tài, Tòa án. Theo đó, phần mở đầu của Công ước Viên đã khẳng định: “Những tranh chấp về các điều ước, cũng như những tranh chấp quốc tế khác, phải được giải quyết bằng các biện pháp hòa bình và phù hợp với những nguyên tắc công lý và những nguyên tắc của pháp luật quốc tế”. Để cụ thể hóa tinh thần này, Điều 66 Công ước Viên đã đưa ra quy định về các thủ tục giải quyết tranh chấp phát sinh bằng biện pháp tư pháp, trọng tài và hòa giải.

Có thể thấy, nếu các quốc gia không thực hiện đúng, nghiêm chỉnh các cam kết tại các điều ước quốc tế mà mình là thành viên thì quốc gia đó hoàn toàn có thể phải đối mặt với những hậu quả pháp lý được thừa nhận rộng rãi trong pháp luật quốc tế. Chẳng hạn, phán quyết của Tòa án Công lý Quốc tế (the International Court of Justice - ICJ) ngày 02/02/2018 về thiệt hại môi trường và bồi thường trong vụ kiện “Một số hoạt động do Nicaragua thực hiện tại khu vực biên giới”, vi phạm quy định của Công ước về các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế đặc biệt như là nơi cư trú của loài chim nước RAMSAR năm 1971 mà hai bên là thành viên (Costa Rica kiện Nicaragua) với khoản bồi thường cho Costa Rica số tiền là 378.890,59 USD[2], đã trở thành phán quyết điển hình và là minh chứng rõ nét cho thấy tính chất nghiêm trọng, phức tạp của việc không tuân thủ “luật chơi chung” tại các điều ước quốc tế mà mỗi quốc gia là thành viên.

Ở khía cạnh khác, việc không thực hiện đầy đủ các cam kết tại các điều ước quốc tế còn làm ảnh hưởng đến uy tín của quốc gia. Theo Tài liệu về điều khoản tham chiếu của nhóm Châu Á - Thái Bình Dương về chống rửa tiền (Asia/Pacific Group on Money Laundering - APG) quy định các quốc gia thành viên có trách nhiệm phải thực hiện 40 khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (Financial Action Task Force on Money Laundering - FATF)[3]. Do đó, Việt Nam với tư cách là quốc gia thành viên của APG có trách nhiệm thực hiện thiện chí các khuyến nghị của FATF. Tuy nhiên, tháng 6/2023, FATF đã đưa Việt Nam vào Danh sách giám sát tăng cường (còn gọi là Danh sách Xám)[4], đồng thời, đưa ra 17 khuyến nghị hành động đối với Việt Nam để giải quyết các thiếu hụt trong cơ chế phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố, tài trợ phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt. Việc Việt Nam bị đưa vào Danh sách Xám của FATF có thể dẫn đến những bất lợi nhất định trong cách nhìn nhận và đánh giá của quốc tế nói chung, đặc biệt, liên quan đến hoạt động đối ngoại, kinh tế, thương mại, đầu tư, hợp tác quốc tế của Việt Nam.

Như vậy, với tính chất như một công cụ pháp lý không thể thiếu để duy trì và cân bằng lợi ích giữa các quốc gia, “công thức chung” của việc ký kết các điều ước quốc tế là các quốc gia cần thực hiện tận tâm, thiện chí các cam kết quốc tế này. Theo đó, bất cứ hành vi vi phạm quy định điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên cũng có khả năng khiến Việt Nam phải đối mặt với những rủi ro như: chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế đối với Việt Nam; chấm dứt tư cách thành viên của Việt Nam tại tổ chức quốc tế liên quan; bị khởi kiện từ các chủ thể có quyền theo các điều ước quốc tế, đặc biệt, những điều ước quốc tế liên quan đến thương mại, đầu tư quốc tế hay bị ảnh hưởng xấu tới hình ảnh, vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Xuất phát từ ý nghĩa quan trọng của việc thực hiện điều ước quốc tế, để bảo đảm cho tiến trình thực hiện các nghĩa vụ quốc tế của Việt Nam được diễn ra đầy đủ, nghiêm chỉnh, công tác giám sát đã trở thành công cụ hiệu quả giúp Quốc hội kịp thời phát hiện các vi phạm hoặc sai sót trong thực hiện điều ước quốc tế, từ đó, đề xuất các giải pháp phù hợp, khắc phục nhanh chóng những vấn đề vướng mắc, hạn chế đến mức thấp nhất những hệ lụy pháp lý mà Chính phủ, Nhà nước có khả năng đối mặt, góp phần tiếp tục khẳng định vai trò, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, bảo đảm tối đa lợi ích quốc gia, dân tộc.

2. Một số tồn tại, hạn chế trong hoạt động giám sát của Quốc hội đối với việc thực hiện các điều ước quốc tế

Trong những năm qua, Việt Nam đã ký kết nhiều điều ước quốc tế bao trùm trên nhiều lĩnh vực và cấp độ khác nhau như điều ước quốc tế song phương, điều ước quốc tế đa phương; điều ước quốc tế khu vực, điều ước quốc tế toàn cầu. Từ việc chỉ tham gia với tư cách thành viên gia nhập, đến nay, Việt Nam đã tham gia với vai trò trực tiếp đàm phán, xây dựng các điều ước quốc tế. Tuy nhiên, việc giám sát thực hiện các điều ước quốc tế của Quốc hội còn tồn tại một số hạn chế nhất định như:

Trong gần một thập kỷ, kể từ khi Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 và Luật Điều ước quốc tế năm 2016 có hiệu lực cho đến nay, về cơ bản, khuôn khổ pháp lý phục vụ cho việc thực hiện điều ước quốc tế nói riêng và giám sát hoạt động này nói chung ngày càng được hoàn thiện. Tuy nhiên, trên thực tế, hoạt động giám sát việc thực hiện các điều ước quốc tế chưa thực sự được quan tâm đúng mức so với tầm quan trọng và ý nghĩa của nhiệm vụ này. Hiện, việc giám sát mới chủ yếu được thực hiện qua công tác đánh giá tính tương thích của pháp luật trong nước với các điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên hoặc chuẩn bị ký kết[5].

Về khía cạnh giám sát chuyên đề từ các Ủy ban của Quốc hội: hiện, chỉ có 01 chuyên đề giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về thực hiện các Hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam là thành viên được thực hiện từ năm 2019 - 2020. Bên cạnh đó, một số chuyên đề giám sát do Ủy ban Đối ngoại Quốc hội thực hiện, như: việc thực hiện các điều ước quốc tế về biên giới lãnh thổ giữa Việt Nam - Trung Quốc, Việt Nam - Lào, Việt Nam - Campuchia từ năm 2022 - 2024; các điều ước quốc tế giữa Việt Nam - Liên Bang Nga năm 2018; các thỏa thuận hợp tác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia; Thỏa thuận giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào về việc giải quyết vấn đề di cư tự do và kết hôn không giá thú trong vùng biên giới hai nước năm 2018.

Hiệu quả hoạt động giám sát thực hiện điều ước quốc tế của Quốc hội chưa cao xuất phát từ một số nguyên nhân sau:

Thứ nhất, trình tự, thủ tục giám sát thực hiện điều ước quốc tế chưa được quy định đầy đủ, rõ ràng. Mặc dù, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 có quy định về quy trình, thủ tục thực hiện quyền giám sát của Quốc hội nhưng đây là hoạt động giám sát nói chung trong hệ thống pháp luật Việt Nam, nên chưa thực sự phù hợp và còn gặp khó khăn trong giám sát thực hiện điều ước quốc tế. Ví dụ: Điều 7 Luật Điều ước quốc tế năm 2016 quy định, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám sát hoạt động ký kết và thực hiện điều ước quốc tế, trong đó, trình tự, thủ tục giám sát hoạt động ký kết và thực hiện điều ước quốc tế tuân theo quy định của pháp luật về hoạt động giám sát của Quốc hội. Tuy nhiên, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 chưa có điều khoản quy định trực tiếp về vai trò của Quốc hội cũng như trình tự, thủ tục giám sát đối với việc thực hiện điều ước quốc tế.

Thứ hai, thẩm quyền chịu trách nhiệm giám sát việc thực hiện điều ước quốc tế chưa thống nhất và cơ chế phối kết hợp giữa các cơ quan để thực hiện công tác này chưa được quy định rõ ràng, cụ thể:

- Về thẩm quyền chịu trách nhiệm giám sát: khoản 3 Điều 8 Nghị quyết số 71/2025/UBTVQH15 ngày 18/02/2025 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể và cơ cấu tổ chức của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội (Nghị quyết số 71/2025/UBTVQH15) quy định, Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại có trách nhiệm giám sát các hoạt động ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế. Trong khi đó, theo Luật Điều ước quốc tế năm 2016, cơ quan có thẩm quyền giám sát việc ký kết và thực hiện điều ước quốc tế gồm: Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội. Bên cạnh đó, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 chưa quy định cụ thể về thẩm quyền của các cơ quan trong việc giám sát hoạt động này. Sự thiếu thống nhất trong các quy định về thẩm quyền dẫn đến việc thực hiện công tác giám sát chưa thực sự hiệu quả, các cơ quan được giao nhiệm vụ gặp nhiều lúng túng trong hiểu, thực hiện công việc được phân công.

- Về cơ chế phối kết hợp giữa các cơ quan: pháp luật chưa quy định đầy đủ về cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, đặc biệt là các Ủy ban của Quốc hội trong việc thực hiện công tác này. Ví dụ: Nghị quyết số 71/2025/UBTVQH15 chỉ giao Ủy ban Quốc phòng, An ninh và Đối ngoại chịu trách nhiệm giám sát việc thực hiện các điều ước quốc tế mà chưa quy định rõ ràng, cụ thể việc phân công, phối hợp giữa các Ủy ban của Quốc hội có liên quan trong giám sát đối với từng lĩnh vực khác nhau. Trên thực tế, những năm qua, số lượng điều ước quốc tế mà Việt Nam gia nhập và ký kết ngày càng nhiều[6], nội dung của các điều ước quốc tế ngày càng đa dạng, phức tạp và nhạy cảm như: các FTA thế hệ mới không chỉ liên quan đến vấn đề thương mại thuần túy mà còn liên quan đến những lĩnh vực phi thương mại như lao động, môi trường, nhân quyền...; các điều ước quốc tế với các cấp độ từ song phương, khu vực đến toàn cầu, bao trùm trên nhiều lĩnh vực khác nhau như quốc phòng, an ninh, thương mại, đầu tư, ngoại giao, môi trường, giáo dục... Với tính chất phong phú, phức tạp bao trùm trên nhiều lĩnh vực khác nhau của điều ước quốc tế, để công tác giám sát được thực hiện hiệu quả, kịp thời, việc phối kết hợp giữa các cơ quan hữu quan nói chung và các Ủy ban của Quốc hội nói riêng là thực sự cần thiết.

Thứ ba, quy định về phương thức giám sát thực hiện điều ước quốc tế chưa cụ thể, rõ ràng: Điều 7 Luật Điều ước quốc tế năm 2016 quy định trình tự, thủ tục giám sát hoạt động ký kết và thực hiện điều ước quốc tế tuân theo quy định của pháp luật về hoạt động giám sát của Quốc hội. Tuy nhiên, việc giám sát của Quốc hội được thực hiện thông qua nhiều cách thức, quy định khá tản mạn trong hệ thống pháp luật, chưa được hệ thống hóa rõ ràng. Điều này, làm cho các chủ thể giám sát lúng túng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, ảnh hưởng trực tiếp đến tính toàn diện, hiệu quả của hoạt động giám sát điều ước quốc tế.

Thứ tư, chưa có quy định về các tiêu chí để đánh giá kết quả hoạt động giám sát thực hiện điều ước quốc tế. Do đó, việc đánh giá, xem xét tính hiệu quả, mức độ hoàn thành nhiệm vụ của các chủ thể trực tiếp tham gia công tác giám sát điều ước quốc tế rất khó để lượng hóa.

Thứ năm, công tác giám sát việc thực hiện điều ước quốc tế chưa thực hiện thường xuyên, mang nặng tính hình thức, chưa đi vào thực chất. Nguyên nhân một phần xuất phát từ việc Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015 chưa quy định cụ thể về thời gian định kỳ giám sát. Trong bối cảnh số lượng các điều ước quốc tế Việt Nam ký kết ngày càng nhiều, để góp phần bảo đảm việc thực hiện các điều ước quốc tế được thực hiện hiệu quả, việc giám sát thực hiện điều ước quốc tế được xem là hoạt động mang tính đặc thù, đòi hỏi cần được thực hiện thường xuyên, liên tục nhằm kịp thời nhắc nhở, nâng cao hơn nữa trách nhiệm của các cơ quan liên quan trong việc thực hiện công tác này.

Thứ sáu, nhận thức, năng lực chuyên môn của một bộ phận cán bộ trực tiếp tham gia công tác giám sát việc thực hiện điều ước quốc tế còn hạn chế. Do số lượng các điều ước quốc tế Việt Nam tham gia ngày càng nhiều, tính chất và mức độ phức tạp ngày càng cao đòi hỏi kỹ năng, trình độ chuyên môn của các cán bộ trực tiếp tham gia giám sát là rất lớn. Tuy nhiên, trên thực tế, năng lực của các chủ thể này chưa thực sự đáp ứng yêu cầu; nhận thức về vị trí, vai trò của điều ước quốc tế chưa đầy đủ, rõ ràng.

3. Một số kiến nghị, đề xuất

Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về hoạt động giám sát thực hiện điều ước quốc tế, trong đó, rà soát các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, đặc biệt là Luật Điều ước quốc tế năm 2016 và Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015, đối với các vấn đề cụ thể sau:

- Quy định rõ các chủ thể (cá nhân, cơ quan, tổ chức) có thẩm quyền giám sát; vai trò, trách nhiệm, cơ quan thuộc Quốc hội được giao chủ trì thực hiện công tác giám sát, làm rõ vai trò phối hợp giữa các Ủy ban của Quốc hội, các bộ, ngành và cơ quan có liên quan trong việc giám sát; trình tự, thủ tục thực hiện việc giám sát.

- Nghiên cứu bổ sung quy định thời gian định kỳ giám sát để nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.

- Quy định rõ các phương thức giám sát để bảo đảm tính rõ ràng, khả thi.

- Nghiên cứu xây dựng các tiêu chí để đánh giá tính hiệu quả, mức độ hoàn thành trách nhiệm của các chủ thể trực tiếp tham gia giám sát việc thực hiện điều ước quốc tế, chẳng hạn, có thể căn cứ vào hai tiêu chí là mức độ hoàn thành nội dung công việc và tiến độ thực hiện nhiệm vụ, từ đó, rút ra bài học kinh nghiệm cho những đánh giá, giám sát tiếp theo nhằm nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trực tiếp tham gia giám sát, đồng thời, phát hiện kịp thời những vấn đề còn tồn tại, hạn chế trong quá trình thực hiện điều ước quốc tế.

Thứ hai, nâng cao năng lực, nhận thức, số lượng cán bộ trực tiếp thực hiện hoạt động giám sát điều ước quốc tế. Để nâng cao chất lượng công tác điều ước quốc tế nói chung, giám sát việc thực hiện các điều ước quốc tế nói riêng không thể không nhắc đến yếu tố “con người”. Do đó, việc tổ chức các lớp tập huấn, đào tạo, chia sẻ kinh nghiệm cho các nhóm đối tượng này là rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay.

Thứ ba, về phạm vi giám sát điều ước quốc tế, trên thực tế, số lượng các điều ước Việt Nam tham gia ký kết ngày càng nhiều, vì vậy, để hoạt động giám sát đi vào thực chất, cần cân nhắc phân loại, ưu tiên, giới hạn số lượng các điều ước quốc tế đưa vào danh sách cần giám sát theo một số tiêu chí sau:

- Điều ước quốc tế thuộc thẩm quyền phê chuẩn của Quốc hội theo khoản 1 Điều 29 Luật Điều ước quốc tế năm 2016, như: điều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; điều ước quốc tế về việc thành lập, tham gia tổ chức quốc tế và khu vực nếu việc thành lập, tham gia, rút khỏi tổ chức đó ảnh hưởng đến chính sách cơ bản của quốc gia về đối ngoại, quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội, tài chính, tiền tệ; điều ước quốc tế làm thay đổi, hạn chế hoặc chấm dứt quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân theo quy định của luật, nghị quyết của Quốc hội; điều ước quốc tế có quy định trái với luật, nghị quyết của Quốc hội; điều ước quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp ký với người đứng đầu Nhà nước khác.

- Điều ước quốc tế được Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến trước khi ký theo quy định tại khoản 1 Điều 14 Luật Điều ước quốc tế năm 2016, như: các điều ước quốc tế có quy định khác hoặc chưa được quy định trong luật, nghị quyết của Quốc hội, quy định trái pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội hoặc điều ước quốc tế mà việc thực hiện cần sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ, ban hành luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ

Quốc hội.

- Điều ước quốc tế khác theo ngành, lĩnh vực dự kiến được giám sát theo kế hoạch.

Kết luận

Trước bối cảnh thế giới có nhiều biến chuyển khó lường, điều ước quốc tế đã trở thành công cụ pháp lý đắc lực giúp cân bằng tối đa lợi ích giữa các quốc gia, góp phần duy trì hòa bình, an ninh thế giới. Là một phần không tách rời trong trật tự thế giới đa cực, Việt Nam luôn nỗ lựclàm tròn” vai trò, nghĩa vụ của mình với tư cách là quốc gia thành viên của các cam kết quốc tế. Theo đó, giám sát việc thực hiện điều ước quốc tế là công việc cần thiết, cần được quan tâm, đầu tư thích đáng với mục tiêu góp phần thực hiện tốt hơn các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, từ đó, giúp nâng cao hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế, đồng thời, giảm thiểu các rủi ro về pháp lý cũng như các rủi ro khác mà Việt Nam có thể phải đối mặt./.

Nguyễn Khánh Linh

Vụ Pháp luật quốc tế, Bộ Tư pháp

Ảnh: Internet

[1]. Chẳng hạn, Phần XV Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982; Điều XVIII Công ước quốc tế về buôn bán các loại động, thực vật hoang dã nguy cấp (CITES); Điều 11 Công ước về thông báo sớm sự cố hạt nhân (IAEA) năm 1985; Điều 14 Bản ghi nhớ về hợp tác trong lĩnh vực giáo dục, giáo dục đại học và nghiên cứu khoa học giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Nhà nước Ca-ta năm 2012, có hiệu lực đối với Việt Nam năm 2018; Điều 16 Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Cộng hòa Lít-va về nhận trở lại công dân hai nước năm 2019…

[2]. Xem tại: https://www.iucn.org/news/world-commission-environmental-law/201804/icj-renders-first-environmental-compensation-decision-summary-judgment, truy cập ngày 14/7/2025.

[3]. Xem tại: https://apgml.org/about-us/documents/default.aspx, truy cập ngày 14/7/2025.

[4]. Theo FATF, Danh sách Xám còn được gọi là danh sách “Các khu vực pháp lý có rủi ro cao đang được giám sát chặt chẽ hơn” để xác định các quốc gia đang có những thiếu sót chiến lược trong chế độ chống rửa tiền và chống tài trợ khủng bố nhưng đã cam kết giải quyết những thiếu sót này. Các quốc gia trong Danh sách Xám phải chịu sự giám sát chặt chẽ hơn và phải xử lý những điểm yếu của mình trong khung thời gian đã thỏa thuận (xem tại: https://www.sanctionscanner.com/knowledge-base/fatf-blacklists-and-greylists-171, truy cập ngày 14/7/2025).

[5]. Ví dụ: Quốc hội đã thông qua Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung các năm 2017, 2025), trong đó, lần đầu tiên, vấn đề trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội được quy định để phù hợp với yêu cầu của Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng và Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia; Chính phủ đã ban hành Nghị định số 33/2024/NĐ-CP ngày 27/3/2024 quy định việc thực hiện Công ước Cấm phát triển, sản xuất, tàng trữ, sử dụng và phá hủy vũ khí hóa học,… Việc đánh giá khả năng gia nhập Nghị định thư chống đưa người di cư trái phép bằng đường bộ, đường biển và đường không; bổ sung Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia cần phải so sánh, đối chiếu với các điều ước quốc tế khác trong cùng lĩnh vực mà Việt Nam là thành viên như Công ước ASEAN về phòng, chống buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em.

[6]. Trong năm 2023, Bộ Tư pháp đã thẩm định 50 điều ước quốc tế (tăng 56% văn bản so với cùng kỳ năm 2022), góp ý 331 điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tài liệu về điều khoản tham chiếu của nhóm Châu Á - Thái Bình Dương về chống rửa tiền (APG).

2. Bốn mươi Khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF), https://www.fatfgafi.org/content/dam/fatfgafi/recommendations/FATF%20Standards%20-%20 40%20Recommendations%20rc.pdf, truy cập ngày 14/7/2025.

3. Phán quyết của Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ) ngày 02/02/2018 về thiệt hại môi trường và bồi thường trong vụ kiện một số hoạt động do Nicaragua thực hiện tại khu vực biên giới, vi phạm quy định của Công ước về các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế đặc biệt như là nơi cư trú của loài chim nước RAMSAR năm 1971 mà hai bên là thành viên (Costa Rica kiện Nicaragua), https://www.iucn.org/news/world-commission-environmental-law/201804/icjrenders-first-environmental-compensation-decision-summary-judgment, truy cập ngày 14/7/2025.

4. Quy chế hoạt động của Nhóm Châu Á- Thái Bình Dương về rửa tiền.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số Kỳ 2 (435) tháng 8/2025)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Khả năng thỏa thuận về thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài - Kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Khả năng thỏa thuận về thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài - Kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Tóm tắt: Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại đề cao quyền tự quyết của các bên, vì thủ tục này chỉ được tiến hành khi các bên có thỏa thuận trọng tài. Cơ chế tự do thỏa thuận đặt ra vấn đề, liệu các bên có được thỏa thuận về thời hiệu khởi kiện để đưa tranh chấp ra giải quyết tại trọng tài hay không? Bài viết phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về khả năng thỏa thuận thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại, so sánh với pháp luật của một số quốc gia về vấn đề này; từ đó, đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật.
Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thế chấp tài sản số từ kinh nghiệm pháp luật quốc tế và một số quốc gia

Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thế chấp tài sản số từ kinh nghiệm pháp luật quốc tế và một số quốc gia

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích một số nội dung cơ bản về thế chấp bằng tài sản số trong pháp luật quốc tế và của một số quốc gia; từ đó, kiến nghị một số chính sách để Việt Nam có thể nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hành lang pháp lý phù hợp, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, giúp kinh tế tư nhân phát triển mạnh và bền vững hơn.
Xây dựng đội ngũ công chức, viên chức tư pháp địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng đội ngũ công chức, viên chức tư pháp địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích một số vấn đề lý luận như khái niệm, quan điểm và yêu cầu đặt ra đối với đội ngũ công chức, viên chức tư pháp địa phương trong bối cảnh hiện nay. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác xây dựng đội ngũ công chức, viên chức tư pháp địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Quy định về quyền bề mặt theo pháp luật dân sự Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện

Quy định về quyền bề mặt theo pháp luật dân sự Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về quyền bề mặt qua các thời kỳ; chỉ ra một số bất cập trong quy định pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về quyền bề mặt ở Việt Nam thời gian qua; từ đó, đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Một số định hướng tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Một số định hướng tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Trước yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, hoàn thiện pháp luật hình sự nói riêng là yêu cầu tất yếu. Bài viết phân tích chính sách, pháp luật hình sự hiện hành và một số yêu cầu đặt ra trong bối cảnh hiện nay, từ đó, đề xuất một số định hướng hoàn thiện pháp luật hình sự đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong tố tụng hình sự Việt Nam

Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong tố tụng hình sự Việt Nam

Xuất phát từ luận điểm quá trình tố tụng hình sự là biểu hiện của việc thực hiện quyền tư pháp trong thực tiễn, bài viết đánh giá thực trạng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về vấn đề này, từ đó, đề xuất một số kiến nghị nhằm tiếp tục kiểm soát có hiệu quả quyền tư pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã chủ nghĩa ở Việt Nam thời gian tới.
Hoàn thiện khung pháp lý về trọng tài thương mại trực tuyến trong điều kiện phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam

Hoàn thiện khung pháp lý về trọng tài thương mại trực tuyến trong điều kiện phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam

Trọng tài thương mại trực tuyến có thể được coi là sự sáng tạo và nâng cấp so với trọng tài thương mại truyền thống, đặc biệt, trong thời đại công nghệ số và phát triển nền kinh tế số, có rất nhiều hợp đồng thương mại được ký kết thông qua chữ ký số, hợp đồng thương mại điện tử… Trọng tài thương mại trực tuyến là phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thông qua ứng dụng công nghệ thông tin và phương thức điện tử. Bài viết nghiên cứu, làm rõ về trọng tài thương mại trực tuyến; nhận diện những thách thức khi áp dụng trọng tài trực tuyến để giải quyết tranh chấp thương mại; từ đó, kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện khung pháp lý về trọng tài thương mại trực tuyến trong điều kiện phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam.
Pháp luật về phòng ngừa tiếng ồn - Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện

Pháp luật về phòng ngừa tiếng ồn - Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện

Thông qua việc phân tích, đánh giá tầm quan trọng của phòng ngừa tiếng ồn và những hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật, bài viết đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật điều chỉnh về vấn đề này nhằm góp phần hạn chế tác động tiêu cực từ nguồn, bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành của người dân theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013 và Luật Bảo vệ môi trường năm 2020.
Hoàn thiện quy định pháp luật bảo đảm việc làm bền vững trong hoạt động của công ty đa quốc gia

Hoàn thiện quy định pháp luật bảo đảm việc làm bền vững trong hoạt động của công ty đa quốc gia

Việc làm bền vững là mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Các công ty đa quốc gia (Multinational Enterprises - MNEs), thông qua hoạt động đầu tư, có vai trò đáng kể trong tạo việc làm, nâng cao thu nhập và thực hiện trách nhiệm xã hội doanh nghiệp. Việt Nam đã nội luật hóa nhiều tiêu chuẩn lao động quốc tế, song còn tồn tại “khoảng trống” pháp lý trong bảo đảm việc làm bền vững, đặc biệt với MNEs. Bài viết phân tích nghĩa vụ của MNEs theo pháp luật quốc tế, đánh giá bất cập trong quy định pháp luật Việt Nam, từ đó, đề xuất giải pháp hoàn thiện khung pháp lý nhằm bảo vệ quyền lợi người lao động và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững trong bối cảnh hội nhập.
Các mô hình, kinh nghiệm lập pháp của một số nước trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Các mô hình, kinh nghiệm lập pháp của một số nước trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Bài viết phân tích các mô hình lập pháp và kinh nghiệm của một số nước trên thế giới trong việc đổi mới quy trình lập pháp; trên cơ sở đó, liên hệ và gợi mở một số vấn đề cần tiếp tục sửa đổi để hoàn thiện mô hình, quy trình lập pháp ở Việt Nam hiện nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, quyền công dân thể hiện qua Hiến pháp năm 1946 và những giá trị được kế thừa, phát triển trong giai đoạn hiện nay

Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, quyền công dân thể hiện qua Hiến pháp năm 1946 và những giá trị được kế thừa, phát triển trong giai đoạn hiện nay

Hiến pháp năm 1946 là bản Hiến pháp dân chủ, tiến bộ, kết tinh giá trị của thời đại, phản ánh tư tưởng về Nhà nước pháp quyền của Hồ Chí Minh, là thành quả của công cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do của toàn dân tộc. Bài viết phân tích nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, quyền công dân thể hiện qua bản Hiến pháp năm 1946 và đánh giá việc kế thừa, phát triển những tư tưởng này trong giai đoạn hiện nay.
Bàn về luật công, luật tư trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam

Bàn về luật công, luật tư trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam

Bài viết nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về việc xây dựng, phân chia hệ thống pháp luật trên nền tảng của luật công, luật tư; làm rõ ý nghĩa, vai trò cơ bản của việc phân chia luật công, luật tư; từ đó, gợi mở một số giải pháp xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong kỷ nguyên mới.
Hoàn thiện pháp luật về xử lý quyền tài sản được dùng bảo đảm trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại

Hoàn thiện pháp luật về xử lý quyền tài sản được dùng bảo đảm trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại

Bài viết phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn pháp luật về thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý quyền tài sản được dùng bảo đảm trong hoạt động cấp tín dụng tại ngân hàng; đồng thời, làm rõ các vướng mắc, bất cập trong quy định pháp luật hiện hành, đặc biệt, khi có sự tham gia của bên thứ ba như bên tài trợ vốn, bên kiểm soát, bên đầu tư vào quyền tài sản. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật để bảo đảm cân bằng lợi ích giữa các chủ thể, đồng thời, tăng cường an toàn pháp lý cho hoạt động cấp tín dụng bảo đảm bằng quyền tài sản.
Hoàn thiện khung pháp lý về bảo vệ dữ liệu cá nhân của trẻ em trong môi trường số ở Việt Nam hiện nay

Hoàn thiện khung pháp lý về bảo vệ dữ liệu cá nhân của trẻ em trong môi trường số ở Việt Nam hiện nay

Trong bối cảnh công nghệ số phát triển mạnh mẽ, việc bảo vệ dữ liệu cá nhân nói chung, đặc biệt là dữ liệu của trẻ em - đối tượng dễ bị tổn thương - trở thành vấn đề cấp thiết. Thời gian qua, mặc dù Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng trong việc xây dựng khung pháp lý bảo vệ dữ liệu cá nhân trẻ em nhưng thực tế vẫn còn nhiều hạn chế, thách thức cần giải quyết. Bài viết tập trung phân tích khung pháp lý hiện hành của Việt Nam về bảo vệ dữ liệu cá nhân trẻ em, đánh giá những kết quả đạt được và hạn chế, đồng thời, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện nhằm bảo đảm quyền và lợi ích tốt nhất của trẻ em trong môi trường số.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, quyền công dân sau hơn 10 năm thi hành Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, quyền công dân sau hơn 10 năm thi hành Hiến pháp năm 2013

Thực tiễn cho thấy, việc thể chế hóa chế định quyền con người, quyền công dân sau hơn 10 năm Thi hành Hiến pháp năm 2013 đã đạt được những thành tựu đáng kể nhưng cũng còn hạn chế, khó khăn nhất định. Để tiếp tục hoàn thiện pháp luật về quyền con người, quyền công dân cần thực hiện đúng, đầy đủ trách nhiệm theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và thể chể hóa các chủ trương, chính sách mới của Đảng về đổi mới tư duy xây dựng, thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.

Theo dõi chúng tôi trên:

he-thong-benh-vien-quoc-te-vinmec
trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
truong-dai-hoc-y-duoc-dai-hoc-quoc-gia-ha-noi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm
cong-ty-co-phan-loc-hoa-dau-binh-son
sofitel-legend-metropole-ha-noi