Thứ hai 09/06/2025 11:17
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Kiến nghị sửa đổi một số quy định về trách nhiệm của cơ quan cung cấp thông tin trong Luật Tiếp cận thông tin năm 2016[1]

Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 quy định công dân được tiếp cận thông tin của cơ quan nhà nước, trừ những thông tin thuộc bí mật nhà nước và những thông tin mà nếu để tiếp cận sẽ gây nguy hại đến lợi ích của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến quốc phòng, an ninh quốc gia, quan hệ quốc tế, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng; gây nguy hại đến tính mạng, cuộc sống hoặc tài sản của người khác; thông tin thuộc bí mật công tác; thông tin về cuộc họp nội bộ của cơ quan nhà nước; tài liệu do cơ quan nhà nước soạn thảo cho công việc nội bộ. Trách nhiệm cung cấp thông tin cho công dân của cơ quan nhà nước cũng được xác định rõ ràng và cụ thể trong Luật. Trong bài viết này, tác giả phân tích, đánh giá những hạn chế của quy định về trách nhiệm của cơ quan cung cấp thông tin trong Luật Tiếp cận thông tin năm 2016, từ đó, đưa ra những kiến nghị để sửa đổi, hoàn thiện quy định này.



Trước đây, do pháp luật chưa quy định rõ và cụ thể những cơ quan nào có trách nhiệm cung cấp thông tin nên khi có nhu cầu tiếp cận thông tin, người dân không biết mình cần đến đâu và hỏi ai. Về phía cơ quan nhà nước cũng không biết mình có được phép cung cấp thông tin hay không và trong trường hợp được yêu cầu, thì cơ quan nhà nước cũng lúng túng không biết dựa trên cơ sở pháp lý nào để cung cấp thông tin cho người dân. Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 ra đời đã khắc phục tình trạng trên, xác định rõ và cụ thể các cơ quan nhà nước có trách nhiệm cung cấp thông tin, qua đó, góp phần bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân được thực hiện trên thực tế. Tuy nhiên, qua một thời gian triển khai thực hiện, các quy định về trách nhiệm của cơ quan cung cấp thông tin trong Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 đã bộc lộ những hạn chế, điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến quyền tiếp cận thông tin của công dân.

1. Hạn chế của quy định về trách nhiệm của cơ quan cung cấp thông tin trong Luật Tiếp cận thông tin năm 2016

Thứ nhất, quy định về phạm vi và trách nhiệm cung cấp thông tin chưa bảo đảm tính ổn định và thống nhất

Trách nhiệm bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân trước hết là Nhà nước, do đó, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước cung cấp thông tin cho công dân để một mặt, giúp người dân tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, mặt khác, tạo điều kiện cho người dân tham gia giám sát hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Hơn nữa, thông qua việc tiếp cận thông tin, người dân có cơ hội tham gia hiệu quả hơn vào các công việc của bộ máy chính quyền; đồng thời, tính công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước cũng được tăng cường. Tuy nhiên, tại khoản 2 Điều 9 Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 liệt kê các cơ quan có trách nhiệm cung cấp thông tin như: Văn phòng Quốc hội có trách nhiệm cung cấp thông tin do Quốc hội, cơ quan của Quốc hội, cơ quan thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng bầu cử quốc gia tạo ra và thông tin do mình tạo ra; Văn phòng Chủ tịch nước có trách nhiệm cung cấp thông tin do Chủ tịch nước tạo ra và thông tin do mình tạo ra; Văn phòng Chính phủ có trách nhiệm cung cấp thông tin do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tạo ra và thông tin do mình tạo ra; Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội có trách nhiệm cung cấp thông tin do Đoàn đại biểu Quốc hội tạo ra và thông tin do mình tạo ra; Văn phòng Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm cung cấp thông tin do Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, các cơ quan của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh tạo ra và thông tin do mình tạo ra… Về lâu dài, có thể các bộ phận của các cơ quan nhà nước có thể thay đổi, tinh gọn… quy định bằng cách liệt kê như Điều 9 sẽ không bảo đảm tính ổn định lâu dài của văn bản luật, gây lãng phí nguồn lực. Mặt khác, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 đã quy định cơ quan cung cấp thông tin ban hành và công bố công khai quy chế nội bộ về tổ chức cung cấp thông tin thuộc phạm vi trách nhiệm của mình (điểm h khoản 1 Điều 34), việc xác định đầu mối cung cấp thông tin được thể hiện trong quy chế này, bởi vậy, việc quy định cụ thể bộ phận cung cấp thông tin cho các cơ quan nhà nước theo trên là không cần thiết. Ngoài ra, quy định đó tạo sự đùn đẩy trách nhiệm, trách nhiệm không cao trong việc cung cấp thông tin cho công dân. Trong một trường hợp nào đó, vì ý chí chủ quan của chủ thể tạo ra thông tin mà không muốn công khai thông tin, dẫn đến “sự khó xử”, thậm chí trách nhiệm “đổ lên đầu” chủ thể trực tiếp cung cấp thông tin thay (sự việc này dễ xảy ra khi mối quan hệ là thủ trưởng cơ quan và bộ phận chuyên môn cấp dưới).

Thứ hai, quy định về các hành vi bị nghiêm cấm

Điều 11 Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 quy định các hành vi bị nghiêm cấm, gồm: Cố ý cung cấp thông tin sai lệch, không đầy đủ, trì hoãn việc cung cấp thông tin; hủy hoại thông tin; làm giả thông tin; cung cấp thông tin để chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phá hoại chính sách đoàn kết, kích động bạo lực; cung cấp thông tin nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín, gây kỳ thị về giới, gây thiệt hại về tài sản của cá nhân, cơ quan, tổ chức; cản trở, đe dọa, trù dập người yêu cầu cung cấp thông tin. Với quy định này thì các hành vi bị nghiêm cấm đã gộp chung tất cả các đối tượng, bao gồm: Cơ quan cung cấp thông tin, người cung cấp thông tin, người thực hiện quyền tiếp cận thông tin và cả người khác nữa vào chung một văn bản và chung một điều luật. Cách quy định này có ưu điểm là dễ tìm kiếm, không trùng lặp về nội dung, tránh mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật quy định chung một vấn đề. Tuy nhiên, mỗi loại chủ thể có đặc điểm riêng khác nhau, nên không thể có quy định như nhau đối với tất cả đối tượng được[2]. Nếu cơ quan chức năng làm không tốt công tác tuyên truyền, phổ biến luật thì công dân rất khó xác định được hành vi nào của mình bị nghiêm cấm và không bị nghiêm cấm. Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 là văn bản luật đầu tiên quy định về quyền tiếp cận thông tin của công dân, đa số người dân còn chưa biết được mình có quyền này. Bên cạnh đó, Điều 11 Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 đã liệt kê cụ thể, đóng khung, cố định các hành vi bị nghiêm cấm, trong khi đây là luật áp dụng chung cho việc tiếp cận thông tin của công dân và cũng chưa thể hoặc không thể liệt kê hết ra được những hành vi có thể xảy ra ở hiện tại hay tương lai, không mang tính dự báo, nên tính ổn định không cao, dễ đến quy định không còn phù hợp và không khả thi khi triển khai thực hiện. Trong khi công dân có quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm thì các cơ quan cung cấp thông tin và nhân viên nhà nước chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép, cho nên, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 không cần thiết phải quy định các hành vi bị nghiêm cấm của cơ quan nhà nước và nhân viên nhà nước. Bởi trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 chính là những việc bắt buộc phải thực hiện nghiêm, nếu không thực hiện nghiêm thì phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi dành cho mình.

Thứ ba, quy định về công khai thông tin chưa thống nhất

Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 quy định công dân được tiếp cận thông tin bằng các cách thức: Tự do tiếp cận thông tin được cơ quan nhà nước công khai và yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp thông tin (Điều 10). Trong đó, đối với thông tin phải được công khai thì thời điểm công khai thông tin đối với từng lĩnh vực được thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan, trường hợp pháp luật chưa có quy định thì chậm nhất là 05 ngày làm việc kể từ ngày tạo ra thông tin, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải công khai thông tin[3]. Như vậy, đối với cơ quan nhà nước phải có nghĩa vụ thực hiện nghiêm chỉnh việc công khai đối với những thông tin phải được công khai và công dân được tự do tiếp cận đối với loại thông tin này. Nhưng khoản 1 Điều 23 Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 lại quy định thông tin phải được công khai có thể là thông tin được cung cấp theo yêu cầu. Quy định này có thể dẫn đến tình trạng trì hoãn việc cung cấp thông tin của cơ quan nhà nước, nguyên tắc kịp thời cung cấp thông tin cho công dân không được bảo đảm. Nghĩa vụ chủ động công khai thông tin của cơ quan nhà nước không được thực hiện nghiêm. Bởi cơ quan cung cấp thông tin có thể viện dẫn lý do để dẫn đến việc không kịp thời công khai thông tin. Qua đó, công dân phải qua thủ tục yêu cầu cung cấp thông tin phức tạp hơn việc tự do tiếp cận thông tin.

Thứ tư, quy định cơ quan cung cấp thông tin xem xét, cân nhắc lợi ích công cộng, sức khỏe của cộng đồng chưa bảo đảm tính kịp thời, minh bạch và phù hợp

Điểm g khoản 1 Điều 34 Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 quy định cơ quan cung cấp thông tin có trách nhiệm kịp thời xem xét, cân nhắc lợi ích của việc cung cấp thông tin để công khai thông tin hoặc cung cấp thông tin theo yêu cầu nhằm bảo đảm lợi ích công cộng, sức khỏe của cộng đồng. Quy định này chưa bảo đảm tính kịp thời, minh bạch trong việc cung cấp thông tin cho công dân từ phía cơ quan nhà nước, bởi các lý do sau:

- Hiện nay, chưa có quy định pháp luật hướng dẫn cụ thể các trường hợp hạn chế quyền tiếp cận thông tin được đưa ra tại Điều 6, Điều 7 Luật Tiếp cận thông tin năm 2016. Như vậy, việc xem xét, cân nhắc lợi ích công cộng, sức khỏe của cộng đồng sẽ phụ thuộc vào ý chí chủ quan của cơ quan cung cấp thông tin. Nếu việc đánh giá dựa trên ý chí chủ quan của chủ thể sẽ có thể dẫn đến sự tùy tiện, không minh bạch. Thực tiễn cho thấy, bất kỳ chính quyền hay cá nhân mang quyền lực nào đều có khuynh hướng cố hữu là muốn cai trị, hạn chế sự công khai, minh bạch thông tin là cách thức để dễ bề cai trị. Do đó, sẽ không loại trừ trường hợp các cơ quan cung cấp thông tin “viện cớ” để hạn chế quyền tiếp cận thông tin của người dân, lảng tránh cung cấp thông tin nhằm tạo thuận lợi, giảm trách nhiệm cho cơ quan mình.

- Việc giao cho cơ quan cung cấp thông tin xem xét, cân nhắc lợi ích công, sức khỏe của cộng đồng sẽ dẫn đến tình trạng không thống nhất trong triển khai thực hiện, bởi vì mỗi cơ quan cung cấp thông tin sẽ được tự do đưa ra ý chí của mình để xem xét, cân nhắc lợi ích công, sức khỏe cộng đồng mà chưa có văn bản nào của cơ quan có thẩm quyền ở cấp cao hơn quy định.

- Nguyên tắc trực tiếp hạn chế quyền công dân được quy định tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 chỉ ra 06 cơ sở để hạn chế quyền công dân vì lợi ích công, bao gồm: Quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng. Nhưng khoản 2 Điều 6 Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 quy định: “Thông tin mà nếu để tiếp cận sẽ gây nguy hại đến lợi ích của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến quốc phòng, an ninh quốc gia, quan hệ quốc tế, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng; gây nguy hại đến tính mạng, cuộc sống hoặc tài sản của người khác; thông tin thuộc bí mật công tác; thông tin về cuộc họp nội bộ của cơ quan nhà nước; tài liệu do cơ quan nhà nước soạn thảo cho công việc nội bộ”. Như vậy, việc hạn chế quyền tiếp cận thông tin của người dân trong Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 là rộng hơn so với các quy định trực tiếp giới hạn quyền công dân của Hiến pháp năm 2013.

Thứ năm, quy định cơ quan cung cấp thông tin có trách nhiệm hướng dẫn kỹ thuật các biện pháp và quy trình bảo vệ thông tin và bảo vệ các hệ thống quản lý thông tin là chưa phù hợp

Thông tin được lưu trữ, vận hành trên cơ sở dữ liệu thông tin, mà thực hiện nhiệm vụ này là thuộc nghiệp vụ của Bộ Thông tin và Truyền thông. Về nguyên tắc thì Bộ Thông tin và Truyền thông cũng có trách nhiệm cung cấp thông tin và thực hiện trách nhiệm trên là chính xác. Hơn nữa, trách nhiệm này đã được ghi nhận tại điểm e khoản 1 Điều 35 Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 quy định trách nhiệm của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước và đã giao trực tiếp trách nhiệm này cho Bộ Thông tin và Truyền thông tại khoản 3 Điều 35 Luật Tiếp cận thông tin năm 2016, đó là: “Hướng dẫn kỹ thuật về biện pháp, quy trình bảo quản thông tin và hệ thống quản lý thông tin”. Mặc dù có khác nhau về mặt câu chữ giữa từ “bảo vệ” và “bảo quản”, nhưng nghĩa của chúng đều nhằm lưu trữ thông tin được sử dụng lâu dài, tránh gây lãng phí nguồn lực cho Nhà nước. Bên cạnh đó, cũng không phải cơ quan cung cấp thông tin nào cũng có đủ nguồn lực thực hiện trách nhiệm này, chẳng hạn như Ủy ban nhân dân cấp xã sẽ không có cơ hội, điều kiện để hướng dẫn kỹ thuật về biện pháp và quy trình bảo vệ thông tin và bảo vệ các hệ thống quản lý thông tin. Cho nên quy định trách nhiệm này đối với tất cả các cơ quan cung cấp thông tin là khó khả thi.

Thứ sáu, quy định người đứng đầu đơn vị được giao làm đầu mối cung cấp thông tin xử lý người cung cấp thông tin là không phù hợp về thẩm quyền

Khoản 2 Điều 34 Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 quy định, người đứng đầu đơn vị được giao làm đầu mối cung cấp thông tin kịp thời xử lý người cung cấp thông tin thuộc thẩm quyền quản lý có hành vi cản trở quyền tiếp cận thông tin của công dân là chưa hợp lý về mặt thẩm quyền. Theo quy định này của Luật Tiếp cận thông tin năm 2016, có thể hiểu đơn vị được giao đầu mối cung cấp thông tin là một bộ phận hợp thành cơ quan cung cấp thông tin, cho nên người đứng đầu đơn vị được giao đầu mối không phải là người đứng đầu cơ quan cung cấp thông tin. Trong pháp luật hiện nay, các vấn đề thẩm quyền xử lý kỷ luật được quy định trong nhiều văn bản khác nhau, hầu hết các văn bản đều quy định người đứng đầu cơ quan nhà nước mới có thẩm quyền xử lý kỷ luật, ví dụ như Nghị định số 112/2020/NĐ-CP ngày 18/9/2020 của Chính phủ về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức quy định: Đối với công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền bổ nhiệm hoặc được phân cấp thẩm quyền bổ nhiệm tiến hành xử lý kỷ luật và quyết định hình thức kỷ luật; đối với công chức không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu cơ quan quản lý hoặc người đứng đầu cơ quan được phân cấp quản lý công chức tiến hành xử lý kỷ luật và quyết định hình thức kỷ luật; đối với công chức biệt phái, người đứng đầu cơ quan nơi công chức được cử đến biệt phái tiến hành xử lý kỷ luật, thống nhất hình thức kỷ luật với cơ quan cử biệt phái trước khi quyết định hình thức kỷ luật... Bên cạnh đó, thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự thì phần lớn là do người có thẩm quyền của cơ quan khác xử lý, chứ không phải do người đứng đầu của chính cơ quan cung cấp thông tin có thẩm quyền xử lý. Mặt khác, trong cơ quan nhà nước thường có xu hướng bảo vệ, bao che, nể nang nhau khi họ vi phạm pháp luật và họ thường bỏ qua những lỗi cho nhau hoặc “giơ cao đánh khẽ”, dẫn đến vấn đề xử lý sẽ không nghiêm minh, khách quan và hiệu quả không cao khi mà pháp luật giao cho chính người trong cơ quan cung cấp thông tin xử lý người cung cấp thông tin thuộc cơ quan mình, có hành vi cản trở quyền tiếp cận thông tin của công dân.

2. Một số kiến nghị

Từ việc phân tích, đánh giá những hạn chế nêu trên, để bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin của công dân thực chất, hiệu quả trên thực tế, cần nghiên cứu, sửa đổi các quy định của Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 về trách nhiệm của cơ quan cung cấp thông tin theo hướng:

- Thứ nhất, sửa đổi Điều 9 Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 theo hướng bỏ nội dung tại khoản 2. Theo đó, Điều 9 Luật Tiếp cận thông tin nên quy định: “Cơ quan nhà nước có trách nhiệm cung cấp thông tin do mình tạo ra, trừ trường hợp quy định tại Điều 6 của Luật này; đối với trường hợp quy định tại Điều 7 của Luật này thì cung cấp thông tin khi có đủ điều kiện theo quy định. Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm cung cấp thông tin do mình tạo ra và thông tin do mình nhận được để trực tiếp thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, trừ trường hợp quy định tại Điều 6 của Luật này; đối với trường hợp quy định tại Điều 7 của Luật này thì cung cấp thông tin khi có đủ điều kiện theo quy định”.

- Thứ hai, sửa đổi khoản 2 Điều 6 Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 phù hợp với Hiến pháp năm 2013 về việc hạn chế quyền tiếp cận thông tin của công dân. Điều 6 Luật Tiếp cận thông tin có thể được quy định như sau:

“Điều 6. Thông tin công dân không được tiếp cận

1. Thông tin thuộc bí mật nhà nước, bao gồm những thông tin có nội dung quan trọng thuộc lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh quốc gia, đối ngoại, kinh tế, khoa học, công nghệ và các lĩnh vực khác theo quy định của luật.

Khi thông tin thuộc bí mật nhà nước được giải mật thì công dân được tiếp cận theo quy định của Luật này.

2. Thông tin mà nếu để tiếp cận sẽ gây nguy hại đến quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.

- Thứ ba, sửa đổi Điều 11 Luật Tiếp cận thông tin năm 2016, quy định các hành vi bị nghiêm cấm đối với công dân, bao gồm: Hủy hoại thông tin; làm giả thông tin; sử dụng thông tin để chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phá hoại chính sách đoàn kết, kích động bạo lực; sử dụng thông tin nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín, gây kỳ thị về giới, gây thiệt hại về tài sản của cá nhân, cơ quan, tổ chức; cản trở, đe dọa, trù dập người yêu cầu, người cung cấp thông tin; các hành vi khác theo quy định của pháp luật.

- Thứ tư, để bảo đảm sự minh bạch, thống nhất, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 nên sửa đổi theo hướng quy định Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định việc xem xét, cân nhắc việc cung cấp thông tin vì lợi ích công cộng, sức khỏe của cộng đồng. Đây là những chủ thể được ban hành văn bản quy phạm pháp luật để quy định chi tiết điều, khoản, điểm trong văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan cấp trên và biện pháp thực hiện chức năng quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực được phân công trên phạm vi cả nước và địa phương. Theo đó, nên sửa đổi Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 theo hướng bỏ nội dung dung điểm g khoản 1 Điều 34 và bổ sung quy định “Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định việc xem xét, cân nhắc việc cung cấp thông tin vì lợi ích công cộng, sức khỏe của cộng đồng theo quy định pháp luật” vào Điều 35.

- Thứ năm, bỏ khoản 1 Điều 23 Luật Tiếp cận thông tin năm 2016. Theo đó, nội dung Điều 23 Luật Tiếp cận thông tin nên quy định:

“Điều 23. Thông tin được cung cấp theo yêu cầu

1. Thông tin liên quan đến bí mật kinh doanh, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình đủ điều kiện cung cấp theo quy định tại Điều 7 của Luật này.

2. Thông tin liên quan đến đời sống, sinh hoạt, sản xuất, kinh doanh của người yêu cầu cung cấp thông tin nhưng không thuộc loại thông tin quy định tại Điều 17 của Luật này và khoản 2 Điều này.

3. Ngoài thông tin quy định tại các khoản 1, 2 Điều này, căn cứ vào nhiệm vụ, quyền hạn, điều kiện và khả năng thực tế của mình, cơ quan nhà nước có thể cung cấp thông tin khác do mình tạo ra hoặc nắm giữ”.

- Thứ sáu, sửa đổi Điều 34 Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 theo hướng bỏ quy định tại điểm h khoản 1.

- Thứ bảy, sửa đổi khoản 2 Điều 34 Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 theo hướng quy định trách nhiệm người đứng đầu cơ quan cung cấp thông tin, như sau: “Người đứng đầu cơ quan cung cấp thông tin chịu trách nhiệm bảo đảm thực hiện nhiệm vụ cung cấp thông tin của cơ quan mình, kịp thời xử lý người cung cấp thông tin thuộc thẩm quyền quản lý có hành vi cản trở quyền tiếp cận thông tin của công dân”.

ThS. Dương Văn Quý
Phân hiệu Trường Đại học Luật Hà Nội tại tỉnh Đắk Lắk



[1]. Bài viết được thực hiện trong khuôn khổ đề tài của Trường Đại học Luật Hà Nội, Trách nhiệm bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam.

[2]. Vũ Thư (2020), Một số vấn đề về hoàn thiện chế định trách nhiệm kỷ luật hành chính ở Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6 (386), tr.16.

[3]. Khoản 4 Điều 18 Luật Tiếp cận thông tin năm 2016.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 194/2025/QH15 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo cơ sở pháp lý thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Bài viết nghiên cứu, phân tích về những nội dung cần bổ sung vào chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để thực hiện việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đang lấy ý kiến nhân dân để thực hiện các chủ trương của Đảng về việc sắp xếp lại chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, không tổ chức cấp huyện. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi bộ máy hành chính phải được tổ chức khoa học, tinh, gọn, minh bạch, hiệu quả nhằm tạo đà cho đất nước phát triển càng trở lên cấp thiết. Xuất phát từ thực trạng tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã và đòi hỏi của thực tiễn, bài viết đề xuất một số gợi mở về đổi mới tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã trong thời gian tới.
Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội như hiện nay, việc tổ chức lại bộ máy chính quyền theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (dự thảo Nghị quyết) là yêu cầu tất yếu. Điều này đòi hỏi phải cải cách toàn diện cả về cấu trúc chiều ngang (sáp nhập địa giới hành chính) và chiều dọc (rút gọn cấp chính quyền trung gian) nhằm mở rộng không gian phát triển, tăng cường tính liên kết giữa trung ương và cơ sở, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân. Bài viết nghiên cứu mô hình tổ chức chính quyền địa phương gắn với địa bàn cụ thể dưới góc nhìn từ cơ sở (Tây Nguyên) để đưa ra những phân tích, nhận định và đề xuất giải pháp cho việc cải cách chính quyền địa phương theo dự thảo Nghị quyết.
So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

Bài viết phân tích, nghiên cứu thiết chế chính quyền địa phương ở Cộng hòa Pháp và Việt Nam; so sánh một số điểm tương đồng, khác biệt về tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương theo hiến pháp của hai nước. Trên cơ sở mô hình tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương của Cộng hòa Pháp, bài viết đề xuất một số kiến nghị để Việt Nam nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cuộc “cách mạng” về tinh gọn bộ máy theo các chủ trương, chính sách của Đảng và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.
Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử. Trên cơ sở nhận diện những khó khăn, vướng mắc, bài viết đề xuất các khuyến nghị để xây dựng khung pháp lý toàn diện, hiệu quả hơn trong việc tích hợp trí tuệ nhân tạo vào công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời gian tới.

Trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bài viết phân tích, đánh giá một số khía cạnh pháp lý, kinh tế của chế độ trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện về chế độ trách nhiệm hữu hạn trong pháp luật doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam.

Hoàn thiện quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dùng vào việc thờ cúng

Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng qua các thời kỳ và thực tiễn áp dụng pháp luật qua công tác xét xử của Tòa án đối với tranh chấp liên quan đến chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng, từ đó, đưa ra một số gợi mở nhằm hoàn thiện chế định này.
Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Sau hơn 11 năm triển khai thi hành, Hiến pháp năm 2013 đã tạo cơ sở hiến định quan trọng cho việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Bên cạnh những kết quả đạt được, hiện nay, việc thực hiện các quy định của Hiến pháp và pháp luật liên quan đến Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và chính quyền địa phương vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện nhằm để đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Ủy ban Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 ban hành Kế hoạch tổ chức lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Việc lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết nhằm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, huy động trí tuệ, tâm huyết và tạo sự đồng thuận, thống nhất cao của toàn dân trong việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013, bảo đảm Hiến pháp phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của Nhân dân.
Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013 là một sự kiện chính trị và pháp lý trọng đại, dù ở phạm vi, quy mô nào cũng là một công việc rất hệ trọng, thiêng liêng. Do vậy, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp phải được tiến hành thận trọng, khách quan, dân chủ, khoa học, hiệu quả với sự tham gia tích cực, đồng bộ của các cơ quan, tổ chức, các chuyên gia, nhà khoa học và toàn thể Nhân dân theo đúng chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính  – bổ sung nhiều quy định mới

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính – bổ sung nhiều quy định mới

Trên cơ sở phát biểu đề dẫn của đồng chí Trương Thế Côn, Tổng Biên tập Tạp chí Dân chủ và pháp luật, phát biểu của đồng chí Hồ Quang Huy, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính về sự cần thiết, quá trình soạn thảo và định hướng xây dựng Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm pháp luật hành chính, Hội thảo khoa học “Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi pham hành chính” đã tiếp nhận được gần 20 ý kiến phát biểu và hơn 10 bài nghiên cứu chuyên sâu. Các bài viết và ý kiến phát biểu tại Hội thảo sẽ được Tạp chí Dân chủ và Pháp luật và Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính tổng hợp, xem xét để gửi tới cá nhân, cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong quá trình xây dựng, quyết định chính sách.
Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp.
Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp  nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV khai mạc sáng ngày 05/5/2025. Đây là Kỳ họp có nhiều nội dung quan trọng, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII - Hội nghị lịch sử, bàn về những quyết sách lịch sử trong giai đoạn Cách mạng mới của nước ta, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.

Bàn về các xu hướng phát triển của pháp luật Việt Nam trong kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Các xu hướng phát triển pháp luật là biểu hiện các quy luật phát triển pháp luật có ý nghĩa phương pháp luận, lý luận và thực tiễn quan trọng, gắn liền với việc xây dựng chiến lược phát triển pháp luật ở nước ta; các xu hướng phát triển pháp luật chịu sự tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau. Bài viết nghiên cứu, tìm hiểu các xu hướng phát triển pháp luật Việt Nam trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm