Thứ ba 17/06/2025 12:11
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Một số điểm cần lưu ý khi công chứng các giao dịch về thừa kế

Thừa kế là một chế định quan trọng trong hệ thống pháp luật dân sự Việt Nam và quyền thừa kế là một trong những quyền cơ bản của công dân Việt Nam. Quyền thừa kế lần đầu tiên xuất hiện trong Bộ luật Hồng Đức dưới triều đại của Vua Lê Thái Tổ, sau đó tiếp tục được mở rộng và quy định trong các bản Hiến pháp nước ta như Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013.

1. Khái quát về chế định thừa kế

Đặc biệt, chế định thừa kế còn được các nhà làm luật quy định một cách chi tiết trong Bộ luật Dân sự năm 1995, Bộ luật Dân sự năm 2005 và hiện nay là Bộ luật Dân sự năm 2015. Chế định thừa kế là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ về tài sản mà ở đây được gọi là di sản do người chết để lại. Điều 609 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về quyền thừa kế như sau: “Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Người thừa kế không là cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc”. Nói một cách đơn giản, chế định thừa kế xoay quanh vấn đề để lại di sản và hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Bản chất của thừa kế chính là sự dịch chuyển tài sản từ người chết sang người thừa kế. Như vậy, theo quy định trên, cá nhân có bốn quyền cơ bản sau: Một là, lập di chúc để định đoạt tài sản của mình sau khi chết; hai là, để lại tài sản cho người thừa kế theo pháp luật; ba là, hưởng di sản theo di chúc; bốn là, hưởng di sản theo pháp luật. Đối với chủ thể không là cá nhân thì chỉ có duy nhất một quyền đó là hưởng di sản theo di chúc.

Quan hệ về thừa kế xuất hiện thường xuyên trong hoạt động công chứng và tương đối phức tạp. Do vậy, để có thể giải quyết một cách chính xác, thấu đáo, bảo đảm an toàn pháp lý cũng như quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể liên quan, công chứng viên cần phải có nền tảng kiến thức vững vàng cùng với khả năng phân tích, áp dụng pháp luật một cách chặt chẽ, phù hợp với từng trường hợp khác nhau. Khi giải quyết bất kỳ tình huống thừa kế nào, thì điều đầu tiên là công chứng viên cần phải xác định rõ các yếu tố sau: Thời điểm mở thừa kế, người để lại di sản thừa kế, di sản thừa kế, người thừa kế và hình thức chia thừa kế.

Theo quy định của pháp luật, người để lại di sản ở đây chỉ có thể là cá nhân và chỉ khi một cá nhân có tài sản chết đi thì mới làm phát sinh mối quan hệ về thừa kế. Tài sản của một cá nhân chết đi hay còn gọi là di sản trong quan hệ về thừa kế có thể là tài sản riêng của người chết hoặc phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác. Để có thể xác định được đâu là tài sản chung và đâu là tài sản riêng, chúng ta cần áp dụng thêm các quy định khác về quyền sở hữu tài sản trong Bộ luật Dân sự cũng như chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình.

Về thời điểm mở thừa kế, Điều 611 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này”. Như vậy, thời điểm mở thừa kế chính là thời điểm người để lại di sản chết được ghi rõ trong giấy chứng tử, trích lục khai tử hoặc giấy tờ khác có giá trị thay thế. Đối với trường hợp một người được Tòa án tuyên bố là đã chết thì việc xác định thời điểm mở thừa kế phải căn cứ vào quyết định của Tòa án. Đối với các công chứng viên, việc xác định một cách chính xác thời điểm mở thừa kế giữ vai trò hết sức quan trọng và là yếu tố tiên quyết trong việc xác định di sản thừa kế, người thừa kế cũng như thời hiệu thừa kế.

Kể từ thời điểm mở thừa kế, tức là kể từ thời điểm xảy ra sự kiện người để lại di sản chết, những người thừa kế sẽ có các quyền và nghĩa vụ tài sản do chính người chết để lại. Người thừa kế được đề cập ở đây được hiểu là cá nhân còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết; trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. Trường hợp những người có quyền thừa kế di sản của nhau đều chết cùng thời điểm hoặc được coi là chết cùng thời điểm do không thể xác định được người nào chết trước thì họ không được thừa kế di sản của nhau và di sản của mỗi người do người thừa kế của người đó hưởng, trừ trường hợp thừa kế thế vị. Đây là quy định được nêu tại Điều 613, Điều 614, Điều 619 Bộ luật Dân sự năm 2015. Điều 652 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về thừa kế thế vị như sau: “Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống”. Từ những quy định trên có thể thấy, pháp luật dân sự đã đưa ra những tiêu chí rất rõ ràng về việc xác định người thừa kế, tuy nhiên, các nhà làm luật vẫn dự trù thêm trường hợp ngoại lệ đề cao tính huyết thống nhằm mục đích bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng phát sinh từ chính mối quan hệ huyết thống đó như trường hợp thừa kế thế vị.

Về hình thức chia thừa kế, Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định hai hình thức đó là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Thừa kế theo di chúc là thừa kế theo ý chí của của chính người để lại di sản; còn thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định.

2. Một số vấn đề cần lưu ý

Bên cạnh việc xác định chính xác các yếu tố quan trọng nêu trên, mỗi công chứng viên khi tiến hành giải quyết các giao dịch dân sự có liên quan đến thừa kế cần đặc biệt lưu ý một số vấn đề sau:

Thứ nhất, về từ chối nhận di sản

Điều 620 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về từ chối nhận di sản như sau: “1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác. 2. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản và gửi đến người quản lý di sản, những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản để biết. 3. Việc từ chối nhận di sản phải được thể hiện trước thời điểm phân chia di sản”. Pháp luật Việt Nam cho phép người thừa kế được quyền hưởng di sản thì cũng cho phép người thừa kế từ chối nhận chính di sản đó. Tuy nhiên, việc từ chối nhận di sản buộc phải tuân theo trình tự, thủ tục nhất định. Việc từ chối nhận di sản phải được thực hiện trước thời điểm phân chia di sản thông qua hình thức lập thành văn bản và gửi đến người quản lý di sản, người thừa kế khác cũng như người được giao nhiệm vụ phân chia di sản để biết. Ngoài ra, việc từ chối nhận di sản còn phải đáp ứng một điều kiện quan trọng đó là việc từ chối không nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác. Ở đây, khi công chứng văn bản từ chối nhận di sản, công chứng viên cần xác định rõ như thế nào là trốn tránh thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác. Nghĩa vụ tài sản được quy định tại Điều 620 Bộ luật Dân sự năm 2015 phải được hiểu một cách chính xác là nghĩa vụ của chính người thực hiện việc từ chối nhận di sản đó chứ không phải là nghĩa vụ do người chết để lại hay nghĩa vụ của bất kỳ chủ thể nào khác có liên quan. Tuy nhiên, trong thực tiễn hành nghề công chứng, vẫn có trường hợp công chứng viên từ chối công chứng văn bản từ chối nhận di sản của người thừa kế đối với di sản là tài sản hiện đang thế chấp tại ngân hàng. Áp dụng quy định tại Điều 614 Bộ luật Dân sự năm 2015 về thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của người thừa kế: “Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại”, công chứng viên cho rằng, kể từ thời điểm mở thừa kế, tất cả các quyền và nghĩa vụ tài sản do người chết để lại sẽ chuyển giao cho người thừa kế, do vậy, nghĩa vụ tài sản đối với ngân hàng do người chết để lại cũng sẽ chuyển giao cho người thừa kế và việc từ chối nhận di sản trong trường hợp này là trốn tránh nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác. Tuy nhiên, việc vận dụng pháp luật như vậy là chưa chính xác. Trước tiên, chúng ta cần xác định pháp luật cho phép người thừa kế được quyền hưởng di sản chứ không bắt buộc người thừa kế phải hưởng di sản do người chết để lại và nội hàm của Điều 614 Bộ luật Dân sự năm 2015 là để xác định thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của người thừa kế. Quyền và nghĩa vụ luôn đi đôi với nhau, khi người thừa kế hưởng di sản do người chết để lại thì đồng nghĩa với việc họ phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại trong phạm vi di sản mà họ được hưởng trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Ngoài ra, căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 615 Bộ luật Dân sự năm 2015 về thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại: “Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”, các nhà làm luật sử dụng thuật ngữ “người hưởng thừa kế” thay vì “người thừa kế” và Điều 622 Bộ luật Dân sự năm 2015 về tài sản không có người nhận thừa kế: “Trường hợp không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có nhưng không được quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản thì tài sản còn lại sau khi đã thực hiện nghĩa vụ về tài sản mà không có người nhận thừa kế thuộc về Nhà nước” đã đưa ra cách xử lý tài sản còn lại sau khi thực hiện xong nghĩa vụ về tài sản trong trường hợp có người thừa kế nhưng đã từ chối nhận di sản. Từ những quy định trên, chúng ta có thể khẳng định rằng, người thừa kế không bắt buộc phải hưởng di sản trong trường hợp có tồn tại nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại và có quyền từ chối nhận di sản nếu đáp ứng được điều kiện không nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ về tài sản của mình đối với người khác.

Thứ hai, thừa kế thế vị

Bộ luật Dân sự đưa ra tiêu chí cụ thể để xác định người thừa kế bao gồm hai trường hợp như sau: Đối với người thừa kế là cá nhân thì phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết; đối với người thừa kế không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. Tuy nhiên, đối với người thừa kế là cá nhân, pháp luật quy định thêm một trường hợp ngoại lệ tại Điều 652 Bộ luật Dân sự năm 2015 về thừa kế thế vị như sau: “Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống”.

Ví dụ: Ông A và vợ là bà B có con là C, C có con là D. Năm 2019, ông A, bà B và C cùng bị tại nạn và chết cùng một thời điểm. Ông A và bà B chết để lại số tiền là 500 triệu đồng. Trong trường hợp này, áp dụng theo quy định tại Điều 652 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì cháu là D sẽ được hưởng di sản thừa kế số tiền 500 triệu đồng từ ông bà là A và B.

Xét theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015 về người thừa kế theo pháp luật thì D sẽ thuộc hàng thừa kế thứ hai. Tuy nhiên, ở tình huống này, mặc dù D là cháu của A và B nhưng D vẫn là người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất với vai trò hưởng thay phần di sản mà đáng lẽ ra C (người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất) sẽ được hưởng nếu còn sống. Như vậy, cần lưu ý trường hợp trên để không nhầm lẫn giữa các hàng thừa kế với nhau cũng như hiểu đúng nội hàm của điều luật về thừa kế thế vị.

Bên cạnh đó, quy định về thừa kế thế vị chỉ được áp dụng đối với hình thức thừa kế theo pháp luật chứ không được áp dụng trong trường hợp chia theo di chúc. Điều 624 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về di chúc như sau: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”. Di chúc là sự thể hiện ý chí chủ quan của chính người để lại di sản, người lập di chúc đã chỉ định người được quyền hưởng di sản thừa kế theo mong muốn của mình. Do vậy, nếu con là người được hưởng di sản theo di chúc mà chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản thì di sản đó sẽ được chia theo di chúc chứ không xảy ra trường hợp thừa kế thế vị như tình huống nêu trên. Đó cũng là lý do vì sao mà các nhà làm luật lại đưa điều luật về thừa kế thế vị vào chương thừa kế theo pháp luật.

Trần Thị Diễm My
Phòng Công chứng số 1 tỉnh Gia Lai

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm