Thứ hai 23/06/2025 11:36
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Một số điểm mới trong quy định về quản lý chất thải và kiểm soát các chất ô nhiễm khác theo Luật Bảo vệ môi trường năm 2020

Một số điểm mới trong quy định về quản lý chất thải và kiểm soát các chất ô nhiễm khác theo Luật Bảo vệ môi trường năm 2020

Tóm tắt: Bài viết tập trung phân tích, đánh giá làm rõ một số điểm mới của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 trong quy định về quản lý chất thải và kiểm soát các chất ô nhiễm khác.

Abstract: The article focuses on analyzing and evaluating and clarifying some new points of the Law on Environmental Protection of 2020 in regulations on waste management and control of other pollutants.

Quản lý chất thải và kiểm soát các chất ô nhiễm khác là một trong những vấn đề rất quan trọng trong việc bảo vệ môi trường (BVMT) bởi quản lý chất thải và kiểm soát các chất ô nhiễm khác được thực hiện hiệu quả thì hoạt động BVMT mới được bảo đảm. Do đó, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã dành nhiều sự quan tâm trong vấn đề sửa đổi, bổ sung và hoàn chỉnh các vấn đề pháp lý liên quan đến hoạt động quản lý chất thải và kiểm soát các chất ô nhiễm. Có thể thấy rằng, những điểm mới của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã mang lại nhiều ý nghĩa tích cực trong hoạt động quản lý chất thải và kiểm soát chất ô nhiễm. Theo đó, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã có sự điều chỉnh trong quy định về cách đặt tên tiêu đề đối với chương điều chỉnh về quản lý chất thải; bổ sung thêm những quy định theo hướng tạo được sự thống nhất về yêu cầu trách nhiệm quản lý chất thải rắn sinh hoạt, chất thải nguy hại và chất thải rắn công nghiệp thông thường của chủ nguồn thải; đưa ra được những quy định mang tính sửa đổi trên tinh thần phù hợp và thống nhất trong yêu cầu chung về hoạt động quản lý nước thải; bổ sung thêm quy định về quản lý và kiểm soát mùi khó chịu. Có thể thấy rằng, đối với quá trình lập pháp, những điểm mới này đã chứng minh được tư tưởng tiến bộ của nhà lập pháp khi đã kịp thời thay đổi, bổ sung những quy định mới để phù hợp hơn với sự thay đổi của xã hội, thích ứng với tình hình thực tế, đặc biệt là vấn đề BVMT trong hoạt động quản lý chất thải và kiểm soát chất ô nhiễm.

1. Thay đổi tên gọi đối với chương quản lý chất thải theo hướng mở rộng, bổ sung thêm nội dung kiểm soát các chất ô nhiễm khác

So với Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã có sự thay đổi trong quy định về cách đặt tên chương trong phần điều chỉnh về nội dung quản lý chất thải. Cụ thể, tại Chương IX Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 đã quy định sử dụng thuật ngữ của chương là “Quản lý chất thải” nhưng đến Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 thì tên chương thay đổi thành “Quản lý chất thải và kiểm soát các chất gây ô nhiễm khác”. Như vậy, cách thay đổi trong quy định này đã mở rộng phạm vi quản lý của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 so với Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, tức là Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 không chỉ tập trung vào việc quản lý chất thải mà còn bổ sung thêm hoạt động kiểm soát các chất ô nhiễm khác. Việc bổ sung này là cần thiết bởi sẽ tạo điều kiện giúp cho hoạt động quản lý chất thải được thực hiện một cách toàn diện, không bỏ sót nguồn ô nhiễm có nguy cơ gây ảnh hưởng xấu đến môi trường.

2. Yêu cầu thực hiện quản lý chất thải rắn sinh hoạt, chất thải nguy hại và chất thải rắn công nghiệp thông thường được quy định theo hướng linh hoạt về cách thức quản lý

So với Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, Luật Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 không đưa ra quy định chung về trách nhiệm của chủ nguồn thải mà chỉ đưa ra trách nhiệm cụ thể của chủ nguồn thải đối với từng loại chất thải. Cụ thể, trách nhiệm của chủ nguồn thải đối với từng loại chất thải được quy định tại Điều 90, Điều 91 đối với chất thải nguy hại; Điều 95, Điều 97 đối với chất thải rắn thông thường; Điều 101 đối với nước thải; Điều 102, Điều 103 đối với bụi, khí thải, tiếng ồn, độ rung, ánh sáng, bức xạ. Còn trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, khác với Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, Luật này đã đưa ra yêu cầu chung đối với quản lý chất thải, trong đó quy định rõ trách nhiệm của chủ nguồn thải và các tổ chức, cá nhân liên quan. Cụ thể:

- Đối với chủ nguồn thải: Chủ nguồn thải chất thải nguy hại, chất thải rắn công nghiệp thông thường có trách nhiệm tự mình tái sử dụng, tái chế, xử lý và thu hồi năng lượng từ chất thải hoặc có thể chuyển giao cho cơ sở có chức năng, giấy phép môi trường phù hợp để xử lý[1]. Theo cách quy định này, có thể hiểu, chủ nguồn thải chất thải nguy hại, chủ nguồn thải chất thải rắn công nghiệp thông thường sẽ có hai lựa chọn trọng việc trong việc quản lý chất thải, đó là tự mình quản lý chất thải hoặc chuyển giao cho các chủ thể đáp ứng đủ yêu cầu thay mình quản lý. Tức là, tùy thuộc vào điều kiện của từng chủ nguồn thải mà họ có thể lựa chọn cách tự quản lý trực tiếp hay quản lý gián tiếp thông qua việc chuyển giao. Đây là một dạng quy định mang tính tùy nghi theo hướng tạo sự thuận lợi cho chủ nguồn thải. Quy định này không mang tính chất bắt buộc mà theo hướng chủ nguồn thải có điều kiện phù hợp với trách nhiệm nào thì sẽ áp dụng trách nhiệm đó, tuy nhiên, phải bảo đảm rằng, sự phù hợp này là đúng đắn và không trái quy định pháp luật. Ngoài ra, chủ nguồn thải còn phải có trách nhiệm trong việc phân định chất thải giữa chất thải nguy hại và chất thải rắn công nghiệp thông thường bằng cách thông qua hoạt động lấy, phân tích mẫu do cơ sở có chức năng, đủ năng lực thực hiện theo quy định của pháp luật[2].

- Đối với tổ chức, cá nhân vận chuyển: Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 cũng đã quy định đặt ra trách nhiệm vận chuyển chất thải cho tổ chức, cá nhân vận chuyển theo hướng được lựa chọn. Cụ thể, tổ chức, cá nhân vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt, chất thải nguy hại, chất thải rắn công nghiệp thông thường phải xử lý có trách nhiệm vận chuyển chất thải đến cơ sở có chức năng, giấy phép môi trường phù hợp hoặc chuyển giao cho tổ chức, cá nhân vận chuyển khác để vận chuyển đến cơ sở có chức năng, giấy phép môi trường phù hợp[3]. Như vậy, với cách quy định này, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã cho phép tổ chức, cá nhân vận chuyển có thể lựa chọn một trong hai cách thức, hoặc tự mình vận chuyển chất thải đến cơ sở có chức năng, giấy phép môi trường phù hợp; hoặc chuyển giao cho tổ chức, cá nhân vận chuyển khác để vận chuyển đến cơ sở có chức năng, giấy phép môi trường phù hợp. Cách quy định này là linh hoạt và cần thiết, bởi khi cho phép các tổ chức, cá nhân vận chuyển được quyền lựa chọn trong việc trực tiếp hoặc chuyển giao trách nhiệm thực hiện việc vận chuyển sẽ giúp tạo được điều kiện tốt nhất có thể cho việc vận chuyển được thực hiện dễ dàng.

Như vậy, có thể thấy rằng, nếu như cách quy định trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 chưa tạo ra được sự đồng bộ trong vấn đề quản lý chất thải thì Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã khắc phục được vấn đề này bằng cách quy định bổ sung về các yêu cầu chung của chủ nguồn thải và các chủ thể có liên quan đến quản lý chất thải. Sự bổ sung này sẽ không chỉ khắc phục được sự hạn chế, rời rạc trong cách quy định của Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 mà còn giúp tạo được sự thống nhất về quy định trách nhiệm cho cả chủ nguồn thải và các chủ thể có liên quan trong hoạt động quản lý chất thải, từ đó góp phần tạo điều kiện thuận lợi trong việc kiểm soát tối đa vấn đề xử lý chất thải, tăng hiệu quả quản lý môi trường.

3. Yêu cầu chung trong hoạt động quản lý nước thải được quy định bổ sung, cụ thể

Về vấn đề quản lý nước thải, nếu như trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 tại Điều 99 chỉ quy định hai yêu cầu về quản lý nước thải thì đến Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày 24/4/2015 của Chính phủ về quản lý chất thải và phế liệu (Nghị định số 38/2015/NĐ-CP), trong quy định về nguyên tắc quản lý nước thải đã có sự thay đổi theo hướng mở rộng khi đã bổ sung thành bốn nguyên tắc tại Điều 36. Đến khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 được ban hành và thông qua, số lượng yêu cầu trong quản lý nước thải được ghi nhận trong Luật này đã có sự sửa đổi, bổ sung về mặt nội dung và điều này được quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 72.

Như vậy, cách quy định của Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 chỉ mới dừng lại ở việc chỉ đưa ra hai quy định chung về quản lý nước thải so với Luật Bảo vệ môi trường năm 2020. Quy định trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 khá ngắn gọn cả về nội dung lẫn hình thức, điều này đã gây ra nhiều bất cập và khó khăn khi áp dụng Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 vào hoạt động quản lý nước thải. Chính vì vậy, để khắc phục tình trạng này, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã có sự thay đổi trong cách quy định để phù hợp, rõ ràng và thống nhất hơn theo hướng đưa ra bốn yêu cầu trong hoạt động quản lý nước thải. Cụ thể:

Một là, nước thải phải được thu gom và xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường trước khi xả ra nguồn tiếp nhận: Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã bổ sung thời điểm của việc thu gom, xử lý bảo đảm quy chuẩn kỹ thuật môi trường của nước thải. Cụ thể là, việc thu gom, xử lý nước thải phải được thực hiện trước khi xả ra môi trường tiếp nhận. Trước đó, cả Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 và Nghị định số 38/2015/NĐ-CP cũng chưa quy định cụ thể về thời điểm thu gom và xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường khi xả thải. Sự bổ sung này của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã cho thấy được sự tiến bộ khi quy định theo hướng phù hợp với tình hình thực tiễn. Thực tế, nếu không quy định rõ về thời điểm thu gom và xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường khi xả thải trong Luật Bảo vệ môi trường và các văn bản hướng dẫn liên quan thì các chủ nguồn thải có thể tự lựa chọn thời điểm và có lý do để phủ nhận hành vi vi phạm của mình. Trong trường hợp, nếu việc xử lý nước thải này xảy ra sau khi các chủ nguồn thải đã xả thải ra ngoài và môi trường tự nhiên đã tiếp nhận thì việc xử lý sẽ không còn ý nghĩa. Do vậy, sự bổ sung này là rất cần thiết bởi điều này sẽ tạo cơ sở pháp lý vững chắc theo hướng đặt ra trách nhiệm và tạo được sự ràng buộc rõ ràng cho chủ nguồn thải trong hoạt động quản lý nước thải.

Hai là, nước thải được khuyến khích tái sử dụng khi đáp ứng yêu cầu về bảo vệ môi trường và mục đích sử dụng nước: Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 không đề cập đến yêu cầu này nhưng Nghị định số 38/2015/NĐ-CP lại có quy định “khuyến khích các hoạt động nhằm giảm thiểu, tái sử dụng nước thải”[4]. Tuy nhiên, Nghị định này chỉ mới dừng lại ở việc nêu ra chứ chưa quy định cụ thể về điều kiện của việc áp dụng nguyên tắc này. Do đó, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã kịp thời bổ sung theo hướng quy định cụ thể đó là nước thải được khuyến khích tái sử dụng khi đáp ứng yêu cầu về bảo vệ môi trường và mục đích sử dụng nước. Sự bổ sung này là phù hợp, bởi vì, nếu tái sử dụng nhưng không đáp ứng điều kiện thì điều này sẽ đi ngược lại bản chất của tái sử dụng. Việc khuyến khích tái sử dụng nước thải là nhằm mục đích sử dụng lại nước thải để không lãng phí nguồn tài nguyên nước. Tuy nhiên, nếu việc tái sử dụng không đem lại hiệu quả và không đáp ứng các yêu cầu bảo vệ môi trường cũng như không phù hợp với mục đích sử dụng nước thì nguy cơ ảnh hưởng xấu đến môi trường là rất lớn. Do vậy, khi thực hiện việc tái sử dụng nước thải, người dân cần phải cân nhắc, xem xét nhiều mặt để việc tái sử dụng thực sự đem lại hiệu quả.

Ba là, nước thải có chứa thông số môi trường nguy hại vượt ngưỡng quy định phải được quản lý theo quy định về quản lý chất thải nguy hại: Yêu cầu này khác về mặt nội dung so với quy định chung về quản lý nước thải trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2014: “Nước thải có yếu tố nguy hại vượt ngưỡng quy định phải được quản lý theo quy định về chất thải nguy hại”[5]. Theo đó, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã sử dụng cụm từ “thông số môi trường nguy hại” thay cho cụm từ “yếu tố nguy hại” của Luật Bảo vệ môi trường năm 2014. Như vậy, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã cụ thể yếu tố nguy hại bằng cách dựa vào thông số môi trường nguy hại. Việc quy định theo hướng thay đổi “yếu tố nguy hại” thành “thông số môi trường nguy hại” sẽ giúp tạo được cơ sở căn cứ chính xác trong việc quản lý nước thải. Vì thực tế, có rất nhiều tiêu chuẩn đưa ra để đánh giá về yếu tố nguy hại và tất nhiên, điều này sẽ là lỗ hổng khi chủ thể quản lý nước thải muốn trốn tránh trách nhiệm. Bởi thực tế, sẽ có trường hợp chủ thể quản lý nước thải có thể cố tình lựa chọn một yếu tố có mức độ nhẹ hơn để nước thải do họ phát sinh không bị quản lý theo quy định về quản lý chất thải nguy hại. Vì vậy, chính sự thay đổi trong cách quy định này sẽ giúp việc quản lý nước thải đạt được hiệu quả và giúp cơ quan có thẩm quyền dễ dàng đánh giá nước thải có thuộc nước thải nguy hại hay không.

Bốn là, việc xả nước thải sau xử lý ra môi trường phải được quản lý theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường, phù hợp với khả năng chịu tải của môi trường tiếp nhận: Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã bổ sung điều kiện của việc xả nước thải sau xử lý ra môi trường mà Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 đã không quy định. Cụ thể, điều kiện này là phải được quản lý theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường, phù hợp với khả năng chịu tải của môi trường tiếp nhận. Như vậy, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã quy định theo hướng việc xả nước thải sẽ phải chịu sự quản lý cụ thể theo pháp luật môi trường và phụ thuộc vào sức chứa của môi trường tiếp nhận. Trường hợp xả nước thải vượt quá sức chịu đựng của môi trường thì cần đưa ra phương án khác phù hợp hơn với tình hình thực tế. Cách quy định này là cần thiết bởi điều này đã tạo ra được căn cứ pháp lý cần thiết để phục vụ cho việc quản lý nước thải hiệu quả trên cơ sở đáp ứng các yêu cầu của quy định pháp luật và bảo vệ môi trường.

4. Nội dung về quản lý và kiểm soát mùi khó chịu được chính thức quy định rõ ràng

Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 chưa có quy định cụ thể về kiểm soát mùi khó chịu, chỉ đến Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 mới có sự bổ sung thêm quy định về kiểm soát mùi khó chịu trong hoạt động quản lý chất thải. Theo đó, cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có trách nhiệm giảm thiểu, thu gom, xử lý mùi khó chịu, bảo đảm không để rò rỉ, phát tán và giữ khoảng cách an toàn về môi trường đối với khu dân cư (điểm d khoản 1; điểm d khoản 2 Điều 53); hộ gia đình, cá nhân có trách nhiệm phải bảo đảm vệ sinh, không phát tán mùi khó chịu đối với chuồng trại chăn nuôi (khoản 2 Điều 61); tổ chức cá nhân trong khu dân cư gây ra mùi khó chịu phải thực hiện biện pháp giảm thiểu, không làm tác động xấu đến cộng đồng dân cư. Như vậy, có thể thấy rằng, so với Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã có sự thay đổi đáng kể khi lần đầu tiên bổ sung quy định về kiểm soát mùi khó chịu vào hoạt động quản lý chất thải. Điều này là cần thiết, bởi hiện nay, trên thực tế, vấn đề ô nhiễm môi trường bởi mùi khó chịu gây ra rất phổ biến, điều này không chỉ gây ô nhiễm môi trường mà con đe dọa trực tiếp đến sức khỏe và quyền được sống trong môi trường trong lành của con người. Chính vì vậy, việc Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 bổ sung thêm quy định về quản lý, kiểm soát mùi khó chịu là điều quan trọng, tạo cơ sở pháp lý cần thiết để phục vụ cho việc kiểm soát, quản lý các loại chất thải và chất ô nhiễm một cách hiệu quả. Tuy nhiên, nhìn nhận một cách khách quan, sự bổ sung này chưa đi sâu vào quy định cụ thể, do đó để các quy định này thực sự phát huy được tính hiệu quả thì đòi hỏi pháp luật môi trường cần phải tiếp tục được hoàn thiện theo hướng quy định cụ thể hơn nữa về vấn đề này để bảo đảm tính khả thi trong quá trình áp dụng.

Có thể nói, bên cạnh những đóng góp tạo chuyển biến tích cực trong công tác quản lý và bảo vệ môi trường, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 đã bộc lộ một số bất cập và hạn chế nhất định. Vì vậy, để khắc phục, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã kịp thời sửa đổi, bổ sung và đưa ra một số quy định mới mang lại nhiều ý nghĩa đối với hoạt động quản lý chất thải và bảo vệ môi trường. Điểm mới đáng chú ý của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 chính là quy định một cách cụ thể về yêu cầu quản lý chất thải theo hướng linh hoạt, tùy nghi, bổ sung thêm yêu cầu chung về quản lý nước thải, đặc biệt là ghi nhận quy định hoàn toàn mới về kiểm soát mùi khó chịu, từ đó mang lại nhiều ý nghĩa tích cực trong hoạt động quản lý chất thải và kiểm soát chất ô nhiễm.

ThS. Trần Linh Huân

Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh

ThS. Phạm Thị Hồng Tâm

Trường Đại học Phan Thiết

[1]. Điểm b khoản 1 Điều 72 Luật Bảo vệ môi trường năm 2020.

[2]. Điểm c khoản 1 Điều 72 Luật Bảo vệ môi trường năm 2020.

[3]. Điểm đ khoản 1 Điều 72 Luật Bảo vệ môi trường năm 2020.

[4]. Khoản 4 Điều 36 Nghị định số 38/2015/NĐ-CP ngày 24/4/2015 của Chính phủ về quản lý chất thải và phế liệu.

[5]. Khoản 2 Điều 99 Luật Bảo vệ môi trường năm 2014.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh khi trao đổi với chúng tôi về 28 nghị định của Chính phủ về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương 02 cấp.
Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm