Thứ bảy 07/06/2025 16:08
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Một số kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008

Trong bài viết này, tác giả phân tích một số hạn chế của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 và đưa ra những kiến nghị sửa đổi, bổ sung.


Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 (sau đây gọi là Luật Quốc tịch) là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến quốc tịch, góp phần bảo đảm quyền con người, thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế, bảo đảm thực hiện chính sách nhân đạo và chính sách đại đoàn kết dân tộc, tăng cường sự gắn bó của cộng đồng người Việt Nam định cư ở nước ngoài với quê hương, đất nước. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện Luật Quốc tịch đã bộc lộ một số hạn chế nhất định, đòi hỏi phải được sửa đổi, bổ sung.

1. Những hạn chế của Luật Quốc tịch

1.1. Chưa có quy định trực tiếp bảo vệ quyền có quốc tịch của những người chưa thành niên có độ tuổi từ 16 đến dưới 18 tuổi

Luật Quốc tịch có nhiều quy định bảo vệ quyền có quốc tịch cho trẻ em (người dưới 16 tuổi)[1], nhưng hầu như không có quy định nào trực tiếp bảo vệ quyền có quốc tịch của người chưa thành niên từ 16 đến 18 tuổi. Chính vì vậy, quyền có quốc tịch của người chưa thành niên có độ tuổi từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi chưa được bảo đảm, dưới góc độ pháp lý và trên thực tế.

Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 19 Luật Quốc tịch, người không quốc tịch có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật Việt Nam (người đủ 18 tuổi trở lên) mới có thể được nhập quốc tịch Việt Nam. Như vậy, những người không quốc tịch có độ tuổi từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi không thể được nhập quốc tịch Việt Nam dù họ đủ những điều kiện khác để được nhập quốc tịch Việt Nam. Chính điều này đã dẫn đến một thực tế, có nhiều người ở độ tuổi từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi sinh sống ở Việt Nam đang ở tình trạng không quốc tịch.

1.2. Việc xác định quốc tịch Việt Nam của trẻ em sinh ra tại Việt Nam có cha, mẹ là người không quốc tịch còn gặp nhiều khó khăn

Điều 7 Công ước về quyền trẻ em năm 1989 quy định quyền có quốc tịch của trẻ em như sau:

“1. Trẻ em phải được đăng ký ngay lập tức sau khi được sinh ra và có quyền có họ tên, có quốc tịch ngay từ khi chào đời...

2. Các quốc gia thành viên phải bảo đảm việc thực hiện những quyền đó phù hợp với pháp luật quốc gia, với những nghĩa vụ của họ theo các văn kiện quốc tế có liên quan đến lĩnh vực này, đặc biệt trong trường hợp mà nếu không làm như thế thì đứa trẻ sẽ không có quốc tịch”.

Việt Nam là một trong những nước đầu tiên trên thế giới phê chuẩn Công ước về quyền trẻ em và đã thực hiện nhiều hành động thiết thực nhằm bảo vệ quyền trẻ em, trong đó có quyền có quốc tịch của trẻ em. Luật Quốc tịch có nhiều quy định bảo vệ quyền có quốc tịch cho trẻ em, trong đó có quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tạo điều kiện cho trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam đều có quốc tịch” (Điều 8).

Tuy nhiên, việc thực hiện những quy định này còn gặp nhiều khó khăn, do bị ràng buộc bởi những quy định khác của Luật Quốc tịch, đặc biệt là quy định về việc xác định quốc tịch Việt Nam của trẻ em sinh ra tại Việt Nam có cha, mẹ là người không quốc tịch. Khó khăn đó được thể hiện trong 02 trường hợp sau đây:

(i) Trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh ra có cha mẹ đều là người không quốc tịch, nhưng có nơi thường trú tại Việt Nam thì có quốc tịch Việt Nam (khoản 1 Điều 17 Luật Quốc tịch).

(ii) Trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh ra có mẹ là người không quốc tịch, nhưng có nơi thường trú tại Việt Nam, còn cha không rõ là ai thì có quốc tịch Việt Nam (khoản 2 Điều 17 Luật Quốc tịch)

Với những quy định nêu trên, quyền có quốc tịch của trẻ em không thể đảm bảo nếu như cha và mẹ (trong trường hợp thứ nhất) hoặc mẹ (trong trường hợp thứ hai) không có nơi thường trú tại Việt Nam. Trong đó, thủ tục công nhận người không quốc tịch có nơi thường trú tại Việt Nam là rất phức tạp và kéo dài nhiều năm.

Những khó khăn nêu trên đã gián tiếp tước bỏ quyền có quốc tịch của trẻ em được quy định tại Điều 8 Luật Quốc tịch Việt Nam và Điều 7 Công ước về quyền trẻ em năm 1989.

1.3. Về sự thay đổi quốc tịch của người chưa thành niên

Khoản 1 và khoản 2 Điều 35 Luật Quốc tịch quy định:

“1. Khi có sự thay đổi về quốc tịch do nhập, trở lại hoặc thôi quốc tịch Việt Nam của cha mẹ thì quốc tịch của con chưa thành niên sinh sống cùng với cha mẹ cũng được thay đổi theo quốc tịch của họ.

2. Khi chỉ cha hoặc mẹ được nhập, trở lại hoặc thôi quốc tịch Việt Nam thì con chưa thành niên sinh sống cùng với người đó cũng có quốc tịch Việt Nam hoặc mất quốc tịch Việt Nam, nếu có sự thỏa thuận bằng văn bản của cha mẹ”.

Theo các quy định nêu trên, quốc tịch của con chưa thành niên sống cùng cha mẹ sẽ hoàn toàn phụ thuộc vào sự thay đổi quốc tịch của cha mẹ. Các quy định này quá cứng nhắc và chưa tôn trọng quyền quyết định của cha mẹ cũng như quyền tự quyết của cá nhân người con chưa thành niên về quốc tịch của mình. Trong nhiều trường hợp, mặc dù cha mẹ xin thôi quốc tịch Việt Nam, nhưng họ vẫn mong muốn con chưa thành niên của họ được giữ quốc tịch Việt Nam và bản thân những người con chưa thành niên cũng mong muốn được giữ quốc tịch Việt Nam.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 35 Luật Quốc tịch người con chưa thành niên sinh sống cùng cha mẹ vẫn phải thôi quốc tịch Việt Nam nếu cha mẹ thôi quốc tịch. Bên cạnh đó, việc áp dụng khoản 1 Điều 35 Luật Quốc tịch có thể dẫn đến tình trạng những người con chưa thành niên trở thành người không quốc tịch, nếu cha mẹ họ đã thôi quốc tịch Việt Nam nhưng chưa được hoặc không được nhập được quốc tịch nước ngoài.

Đối với trường hợp chỉ có cha hoặc mẹ được nhập, trở lại hoặc thôi quốc tịch Việt Nam theo như quy định tại khoản 2 Điều 35 Luật Quốc tịch, thì quốc tịch của con chưa thành niên sẽ thay đổi theo “nếu có sự thỏa thuận bằng văn bản của cha mẹ”. Tuy nhiên, quy định này chỉ có thể thực hiện được khi cha mẹ đang trong thời kỳ hôn nhân và cùng chung sống. Bởi vì, trong trường hợp cha mẹ đã ly hôn, ly thân, thậm chí cắt đứt liên lạc, không liên hệ với nhau, không biết nơi ở của nhau... thì việc yêu cầu lấy ý kiến của cả cha và mẹ của trẻ em là rất khó thực hiện[2].

1.4. Về thời gian sống thực tế ở Việt Nam để được công nhận có quốc tịch Việt Nam

Để giải quyết vấn đề quốc tịch cho những người không quốc tịch đã cư trú ổn định, lâu dài trên lãnh thổ Việt Nam, Điều 22 Luật Quốc tịch quy định: “Người không quốc tịch mà không có đầy đủ các giấy tờ về nhân thân nhưng đã cư trú ổn định trên lãnh thổ Việt Nam từ 20 năm trở lên tính đến ngày Luật này có hiệu lực thi hành và tuân thủ Hiến pháp, pháp luật Việt Nam thì được nhập quốc tịch Việt Nam theo trình tự, thủ tục và hồ sơ do Chính phủ quy định”.

Đây là một quy định tiến bộ, thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với những người không quốc tịch mà không có đầy đủ các giấy tờ về nhân thân, nhưng đã cư trú ổn định trên lãnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên, quy định này còn có những hạn chế nhất định như sau:

Thứ nhất, thời gian 20 năm sống thực tế ở Việt Nam để được công nhận có quốc tịch Việt Nam theo quy định Luật Quốc tịch là quá dài. Tình trạng người không quốc tịch đang sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam tương đối nhiều. Hầu hết những người không quốc tịch là những người lao động phổ thông, trình độ văn hóa thấp, không còn giấy tờ tùy thân nào nên việc nhập quốc tịch theo thủ tục thông thường không thể thực hiện được. Trải qua nhiều năm cư trú, làm ăn, sinh sống ổn định trên lãnh thổ nước ta, đến nay những người này đã thực sự hòa nhập vào cộng đồng người Việt về mọi mặt đời sống. Tuy nhiên, họ phải có 20 năm sống thực tế ở Việt Nam tính đến ngày Luật Quốc tịch có hiệu lực thi hành mới có thể được công nhận có quốc tịch Việt Nam là quá dài, không chỉ gây khó khăn cho cuộc sống của họ, mà còn dẫn đến tình trạng không quốc tịch cho các con, cháu của họ.

Thứ hai, phạm vi áp dụng của quy định này rất hẹp. Quy định tại Điều 22 Luật Quốc tịch chỉ áp dụng đối với đối tượng có 20 năm sống thực tế ở Việt Nam tính đến ngày Luật Quốc tịch có hiệu lực thi hành, chứ không thể áp dụng đối với các đối tượng có 20 năm sống thực tế ở Việt Nam sau ngày Luật Quốc tịch năm 2008 có hiệu lực thi hành. Hạn chế của quy định này là làm cho tất cả các đối tượng có 20 năm trở lên sống thực tế ở Việt Nam sau ngày Luật Quốc tịch có hiệu lực thi hành không thể nhập quốc tịch Việt Nam mặc dù có thời gian rất dài sinh sống ở Việt Nam.

1.5. Một số quy định của Luật Quốc tịch chưa cụ thể, rõ ràng, khó áp dụng trên thực tế

Luật Quốc tịch năm 2008 có nhiều quy định chưa cụ thể, rõ ràng, khó áp dụng trên thực tế. Hạn chế này được thể hiện trong một số trường hợp cụ thể sau đây:

Thứ nhất, chưa có quy định cụ thể về những “trường hợp đặc biệt” để trình Chủ tịch nước cho nhập, cho trở lại quốc tịch Việt Nam mà được giữ quốc tịch nước ngoài

Theo quy định tại khoản 3 Điều 19 Luật Quốc tịch “người nhập quốc tịch Việt Nam thì phải thôi quốc tịch nước ngoài, trừ những người quy định tại khoản 2 Điều này, trong trường hợp đặc biệt, nếu được Chủ tịch nước cho phép” và theo khoản 5 Điều 23 Luật Quốc tịch “người được trở lại quốc tịch Việt Nam thì phải thôi quốc tịch nước ngoài, trừ những người sau đây, trong trường hợp đặc biệt, nếu được Chủ tịch nước cho phép”.

Tuy nhiên, Luật Quốc tịch và các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành Luật Quốc tịch tại Việt Nam chưa quy định cụ thể những trường hợp nào được coi là những “trường hợp đặc biệt” để Chủ tịch nước có thể cho phép người được nhập, trở lại quốc tịch Việt Nam mà vẫn được giữ quốc tịch nước ngoài.

Đây là một trong những vướng mắc, bất cập lớn nhất khi xem xét giải quyết hồ sơ xin nhập, xin trở lại quốc tịch Việt Nam thời gian qua. Xét trên nguyên tắc một quốc tịch Việt Nam, với tư cách là cơ quan thẩm định hồ sơ xin nhập, trở lại quốc tịch Việt Nam, Bộ Tư pháp thường yêu cầu người xin nhập, xin trở lại quốc tịch Việt Nam phải thôi quốc tịch nước ngoài, trước khi trình Chủ tịch nước xem xét quyết định. Trên thực tế đã xuất hiện một số người khiếu nại Bộ Tư pháp vì cho rằng việc yêu cầu họ phải thôi quốc tịch nước ngoài là “trái quy định của Luật Quốc tịch Việt Nam”[3].

Thứ hai, chưa quy định cụ thể thủ tục công nhận quốc tịch Việt Nam của trẻ em nước ngoài sau khi được công dân Việt Nam nhận làm con nuôi

Khoản 2 Điều 37 Luật Quốc tịch quy định: “Trẻ em là người nước ngoài được công dân Việt Nam nhận làm con nuôi thì có quốc tịch Việt Nam, kể từ ngày được cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam công nhận việc nuôi con nuôi”.

Tuy nhiên, Luật Quốc tịch và các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành Luật Quốc tịch không có quy định trình tự, thủ tục công nhận quốc tịch Việt Nam của trẻ em là người nước ngoài được công dân Việt Nam nhận làm con nuôi.

2. Một số kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật Quốc tịch

Từ thực trạng những hạn chế của Luật Quốc tịch nêu trên, chúng tôi đề xuất một số kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật như sau:

2.1. Cần có quy định trực tiếp bảo vệ quyền có quốc tịch của những người chưa thành niên có độ tuổi từ 16 đến dưới 18 tuổi

Theo quy định của Điều 1 Luật Trẻ em năm 2016 thì “trẻ em là người dưới 16 tuổi”, trong đó Điều 1 Công ước về quyền trẻ em (United Nations Convention on the rights of the child - CRC) năm 1989 có quy định như sau: “Trong phạm vi của Công ước này, trẻ em có nghĩa là mọi người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn”[4].

Việc Luật Trẻ em năm 2016 quy định trẻ em là người dưới 16 tuổi và Luật Quốc tịch chỉ có các quy định trực tiếp bảo vệ quyền có quốc tịch của trẻ em (người dưới 16 tuổi), chứ không có các quy định trực tiếp bảo vệ quyền có quốc tịch của những người chưa thành niên có độ tuổi từ 16 đến dưới 18 tuổi, đã hạn chế quyền có quốc tịch của những người chưa thành niên có độ tuổi từ 16 đến dưới 18 tuổi. Điều này có nghĩa là đã hạn chế quyền có quốc tịch của trẻ em theo chuẩn mực quốc tế.

Để giải quyết tận gốc rễ vấn đề này, Luật Trẻ em năm 2016 cần được sửa đổi, theo đó quy định “trẻ em là người dưới 18 tuổi”. Tuy nhiên, trong lúc Luật Trẻ em năm 2016 chưa được sửa đổi, độ tuổi trẻ em chưa được nâng lên đến dưới 18 tuổi, để bảo vệ quyền có quốc tịch của tất cả những người dưới 18 tuổi, Luật Quốc tịch cần có những quy định trực tiếp bảo vệ quyền có quốc tịch của những người có độ tuổi từ 16 đến dưới 18 tuổi. Để làm được điều đó, theo ý kiến của tác giả, toàn bộ thuật ngữ “trẻ em” trong Luật Quốc tịch và các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành Luật Quốc tịch cần được thay thế bằng thuật ngữ “người chưa thành niên”.

2.2. Cần tạo điều kiện dễ dàng trong việc xác định quốc tịch Việt Nam của trẻ em sinh ra tại Việt Nam có cha, mẹ là người không quốc tịch

Để tạo điều kiện dễ dàng hơn trong việc xác định quốc tịch Việt Nam của trẻ em sinh ra tại Việt Nam có cha, mẹ là người không quốc tịch, cần thay thuật ngữ “có nơi thường trú tại Việt Nam” trong Điều 17 Luật Quốc tịch bằng thuật ngữ “đã cư trú ổn định trên lãnh thổ Việt Nam”. Theo đó, Điều 17 Luật Quốc tịch cần được sửa đổi như sau:

“Điều 17. Quốc tịch của trẻ em khi sinh ra có cha mẹ là người không quốc tịch

1. Trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh ra có cha mẹ đều là người không quốc tịch, nhưng đã cư trú ổn định trên lãnh thổ Việt Nam thì có quốc tịch Việt Nam.

2. Trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh ra có mẹ là người không quốc tịch, nhưng đã cư trú ổn định trên lãnh thổ Việt Nam, còn cha không rõ là ai thì có quốc tịch Việt Nam”.

2.3. Về sự thay đổi quốc tịch của người chưa thành niên

Để bảo đảm quyền tự quyết của cha mẹ và con chưa thành niên về quốc tịch của con chưa thành niên khi có cha và mẹ thay đổi quốc tịch, cũng như tạo điều kiện dễ dàng cho việc thay đổi quốc tịch của người chưa thành niên khi có cha hoặc mẹ thay đổi quốc tịch, cần sửa đổi, bổ sung các quy định sau đây:

(i) Quy định về sự đồng ý của con chưa thành niên và sự đồng ý của cha mẹ về quốc tịch của con chưa thành niên khi cha và mẹ đều thay đổi quốc tịch.

(ii) Quy định về sự đồng ý của con chưa thành niên và cha (hoặc mẹ) đang sinh sống với con chưa thành niên về quốc tịch của con chưa thành niên khi chỉ có cha (hoặc mẹ) thay đổi quốc tịch.

Với những lập luận nêu trên, tác giả kiến nghị sửa đổi Điều 35 Luật Quốc tịch như sau:

“1. Khi có sự thay đổi về quốc tịch do nhập, trở lại hoặc thôi quốc tịch Việt Nam của cha mẹ thì quốc tịch của con chưa thành niên sinh sống cùng với cha mẹ cũng được thay đổi theo quốc tịch của cha mẹ, nếu có sự đồng ý của họ và con chưa thành niên.

2. Khi chỉ cha hoặc mẹ được nhập, trở lại hoặc thôi quốc tịch Việt Nam thì con chưa thành niên sinh sống cùng với cha hoặc mẹ cũng có quốc tịch Việt Nam hoặc mất quốc tịch Việt Nam, nếu có sự đồng ý của người đó và con chưa thành niên”.

2.4. Về thời gian sống thực tế ở Việt Nam để được công nhận có quốc tịch Việt Nam

Để tạo điều kiện cho những người không quốc tịch đã cư trú ổn định, lâu dài trên lãnh thổ Việt Nam được nhập quốc tịch Việt Nam, cần sửa đổi các quy định sau đây:

Thứ nhất, rút ngắn thời gian sống thực tế ở Việt Nam để được công nhận có quốc tịch Việt Nam. Theo tác giả, thời gian sống thực tế ở Việt Nam để được công nhận có quốc tịch Việt Nam nên được quy định là 10 năm thay cho 20 năm như trong quy định tại Điều 22 Luật Quốc tịch. Việc rút ngắn thời gian sống thực tế ở Việt Nam để được công nhận có quốc tịch Việt Nam hoàn toàn phù hợp với khuyến cáo của đại diện Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn (UNHCR), theo đó “Việt Nam nên xem xét sửa quy định về thời gian sống thực tế ở Việt Nam để được công nhận có quốc tịch Việt Nam (hiện nay là 20 năm) rút ngắn thời gian xuống ở mức phù hợp với quy định của quốc tế”[5].

Thứ hai, mở rộng phạm vi áp dụng của Điều 22 Luật Quốc tịch. Những quy định của Điều 22 Luật Quốc tịch cần được áp dụng cho tất cả các đối tượng có thời gian sống thực tế ở Việt Nam tính đến thời điểm xin nhập quốc tịch Việt Nam, chứ không chỉ đối với những đối tượng có thời gian sống thực tế ở Việt Nam tính đến thời điểm Luật Quốc tịch có hiệu lực pháp luật.

Với những lập luận nêu trên, tác giả kiến nghị sửa đổi Điều 22 Luật Quốc tịch như sau:

“Điều 22. Trình tự, thủ tục và hồ sơ xin nhập quốc tịch Việt Nam đối với người không quốc tịch đã cư trú ổn định tại Việt Nam.

Người không quốc tịch mà không có đầy đủ các giấy tờ về nhân thân, nhưng đã cư trú ổn định trên lãnh thổ Việt Nam từ 10 năm trở lên tính đến thời điểm xin nhập quốc tịch Việt Nam và tuân thủ Hiến pháp, pháp luật Việt Nam thì được nhập quốc tịch Việt Nam theo trình tự, thủ tục và hồ sơ do Chính phủ quy định”.

2.5. Một số vấn đề khác

Luật Quốc tịch và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Quốc tịch cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định cụ thể các vấn đề sau đây:

(i) Quy định cụ thể về những “trường hợp đặc biệt” để trình Chủ tịch nước cho nhập, cho trở lại quốc tịch Việt Nam mà được giữ quốc tịch nước ngoài.

(ii) Quy định cụ thể thủ tục công nhận quốc tịch Việt Nam của trẻ em nước ngoài sau khi được công dân Việt Nam nhận làm con nuôi.

Trần Việt Dũng & Trần Thị Ngọc Thúy

Đại học Luật thuộc Đại học Huế



[1]. Theo quy định của Điều 1 Luật Trẻ em năm 2016 thì “trẻ em là người dưới 16 tuổi”.

[2]. Nguyễn Toàn Thắng (2009), Các căn cứ xác định mất quốc tịch Việt Nam, Tạp chí Luật học số 6/2009, tr. 58.

[3]. Hoàng Lan (2017), Một số tồn tại, hạn chế sau thực hiện Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành, http://qtht.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/quoc-tịch.aspx?ItemID=424. Cập nhật ngày 15/3/2018.

[4]. Xem: Điều 1 Công ước về quyền trẻ em năm 1989.

[5]. Thành Thật (2017), Tìm giải pháp tháo gỡ vướng mắc quốc tịch của trẻ em, http://baophapluat.vn/tu-phap/tim-giai-phap-thao-go-vuong-mac-quoc-tịch-cua-tre-em-347004.html. Cập nhật ngày: 15/3/2018.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 194/2025/QH15 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo cơ sở pháp lý thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Bài viết nghiên cứu, phân tích về những nội dung cần bổ sung vào chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để thực hiện việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đang lấy ý kiến nhân dân để thực hiện các chủ trương của Đảng về việc sắp xếp lại chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, không tổ chức cấp huyện. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi bộ máy hành chính phải được tổ chức khoa học, tinh, gọn, minh bạch, hiệu quả nhằm tạo đà cho đất nước phát triển càng trở lên cấp thiết. Xuất phát từ thực trạng tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã và đòi hỏi của thực tiễn, bài viết đề xuất một số gợi mở về đổi mới tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã trong thời gian tới.
Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội như hiện nay, việc tổ chức lại bộ máy chính quyền theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (dự thảo Nghị quyết) là yêu cầu tất yếu. Điều này đòi hỏi phải cải cách toàn diện cả về cấu trúc chiều ngang (sáp nhập địa giới hành chính) và chiều dọc (rút gọn cấp chính quyền trung gian) nhằm mở rộng không gian phát triển, tăng cường tính liên kết giữa trung ương và cơ sở, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân. Bài viết nghiên cứu mô hình tổ chức chính quyền địa phương gắn với địa bàn cụ thể dưới góc nhìn từ cơ sở (Tây Nguyên) để đưa ra những phân tích, nhận định và đề xuất giải pháp cho việc cải cách chính quyền địa phương theo dự thảo Nghị quyết.
So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

Bài viết phân tích, nghiên cứu thiết chế chính quyền địa phương ở Cộng hòa Pháp và Việt Nam; so sánh một số điểm tương đồng, khác biệt về tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương theo hiến pháp của hai nước. Trên cơ sở mô hình tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương của Cộng hòa Pháp, bài viết đề xuất một số kiến nghị để Việt Nam nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cuộc “cách mạng” về tinh gọn bộ máy theo các chủ trương, chính sách của Đảng và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.
Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử. Trên cơ sở nhận diện những khó khăn, vướng mắc, bài viết đề xuất các khuyến nghị để xây dựng khung pháp lý toàn diện, hiệu quả hơn trong việc tích hợp trí tuệ nhân tạo vào công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời gian tới.

Trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bài viết phân tích, đánh giá một số khía cạnh pháp lý, kinh tế của chế độ trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện về chế độ trách nhiệm hữu hạn trong pháp luật doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam.

Hoàn thiện quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dùng vào việc thờ cúng

Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng qua các thời kỳ và thực tiễn áp dụng pháp luật qua công tác xét xử của Tòa án đối với tranh chấp liên quan đến chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng, từ đó, đưa ra một số gợi mở nhằm hoàn thiện chế định này.
Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Sau hơn 11 năm triển khai thi hành, Hiến pháp năm 2013 đã tạo cơ sở hiến định quan trọng cho việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Bên cạnh những kết quả đạt được, hiện nay, việc thực hiện các quy định của Hiến pháp và pháp luật liên quan đến Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và chính quyền địa phương vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện nhằm để đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Ủy ban Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 ban hành Kế hoạch tổ chức lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Việc lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết nhằm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, huy động trí tuệ, tâm huyết và tạo sự đồng thuận, thống nhất cao của toàn dân trong việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013, bảo đảm Hiến pháp phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của Nhân dân.
Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013 là một sự kiện chính trị và pháp lý trọng đại, dù ở phạm vi, quy mô nào cũng là một công việc rất hệ trọng, thiêng liêng. Do vậy, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp phải được tiến hành thận trọng, khách quan, dân chủ, khoa học, hiệu quả với sự tham gia tích cực, đồng bộ của các cơ quan, tổ chức, các chuyên gia, nhà khoa học và toàn thể Nhân dân theo đúng chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính  – bổ sung nhiều quy định mới

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính – bổ sung nhiều quy định mới

Trên cơ sở phát biểu đề dẫn của đồng chí Trương Thế Côn, Tổng Biên tập Tạp chí Dân chủ và pháp luật, phát biểu của đồng chí Hồ Quang Huy, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính về sự cần thiết, quá trình soạn thảo và định hướng xây dựng Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm pháp luật hành chính, Hội thảo khoa học “Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi pham hành chính” đã tiếp nhận được gần 20 ý kiến phát biểu và hơn 10 bài nghiên cứu chuyên sâu. Các bài viết và ý kiến phát biểu tại Hội thảo sẽ được Tạp chí Dân chủ và Pháp luật và Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính tổng hợp, xem xét để gửi tới cá nhân, cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong quá trình xây dựng, quyết định chính sách.
Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp.
Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp  nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV khai mạc sáng ngày 05/5/2025. Đây là Kỳ họp có nhiều nội dung quan trọng, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII - Hội nghị lịch sử, bàn về những quyết sách lịch sử trong giai đoạn Cách mạng mới của nước ta, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.

Bàn về các xu hướng phát triển của pháp luật Việt Nam trong kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Các xu hướng phát triển pháp luật là biểu hiện các quy luật phát triển pháp luật có ý nghĩa phương pháp luận, lý luận và thực tiễn quan trọng, gắn liền với việc xây dựng chiến lược phát triển pháp luật ở nước ta; các xu hướng phát triển pháp luật chịu sự tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau. Bài viết nghiên cứu, tìm hiểu các xu hướng phát triển pháp luật Việt Nam trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm