Thứ tư 19/11/2025 08:37
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Một số vướng mắc của Bộ luật Hình sự năm 2015 về quy định tổng hợp hình phạt của nhiều bản án

Trong thực tế thì có thể một người thực hiện hai hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội lần đầu có thể bị xét xử sau hành vi phạm tội thứ hai hoặc ngược lại.

1. Quy định về tổng hợp hình phạt của nhiều bản án tại Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015
So với quy định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 1999 thì Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về tổng hợp hình phạt của nhiều bản án là không có gì thay đổi. Theo đó, việc tổng hợp hình phạt của nhiều bản án được quy định trong 03 trường hợp sau:

1.1 Trường hợp một người đang phải chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về tội đã phạm trước khi có bản án này (theo khoản 1 Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015)
Trong thực tế thì có thể một người thực hiện hai hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội lần đầu có thể bị xét xử sau hành vi phạm tội thứ hai hoặc ngược lại. Vì vậy, quy định tại khoản 1 Điều 56 của Bộ luật Hình sự năm 2015 có thể hiểu là khi một người bị xét xử về một hành vi phạm tội bằng một bản án có hiệu lực pháp luật mà sau đó người này lại bị xét xử về một tội khác và hành vi phạm tội lần sau được thực hiện trước khi có bản án đã có hiệu lực pháp luật thì Tòa án quyết định hình phạt đối với tội đang xét xử. Sau đó, tổng hợp với hình phạt của bản án trước đã có hiệu lực pháp luật. Thời gian chấp hành hình phạt của bản án trước sẽ được trừ vào hình phạt chung sau khi đã tổng hợp hình phạt. Thẩm quyền tổng hợp hình phạt là của Hội đồng xét xử đang xét xử vụ án.

Tuy nhiên, thực tiễn hiện nay vẫn còn cách hiểu khác nhau về thời điểm được coi là “đang phải chấp hành một bản án”. Cách hiểu thứ nhất là thời điểm người đó thực tế đã và đang chấp hành một bản án đã có hiệu lực pháp luật. Cách hiểu thứ hai là chỉ cần khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Ví dụ: Ngày 03/01/2019, Nguyễn Văn B bị Tòa án huyện X tuyên phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Như vậy, ngày 04/02/2019 là ngày bản án có hiệu lực pháp luật. Theo cách hiểu thứ nhất là khi Chánh án Tòa án huyện X ra Quyết định thi hành án phạt tù đối với B (tức là trong thời hạn 07 ngày sau đó, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật) thì mới coi B là đang chấp hành một bản án. Theo cách hiểu thứ hai kể từ ngày 04/02/2019 thì bản án đã có hiệu lực pháp luật nên B phải chấp hành bản án. Vì vậy, đã coi B là đang chấp hành một bản án, còn việc Chánh án Tòa án huyện X ra Quyết định thi hành án phạt tù đối với B chỉ là thủ tục để bắt B đi chấp hành án phạt tù theo quy định của pháp luật.

1.2 Trường hợp một người đang phải chấp hành một bản án mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới (theo khoản 2 Điều 6 Bộ luật Hình sự năm 2015)

Khác với trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015, việc tổng hợp hình phạt theo khoản 2 Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015 là khi một người đã bị kết án về một hành vi phạm tội và đang chấp hành một bản án đã có hiệu luật pháp luật mà sau đó người này tiếp tục có hành vi phạm tội khác. Trường hợp phạm nhân đang chấp hành án phạt tù tại trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ; người bị kết án tù mà bản án đã có hiệu lực pháp luật, đã có quyết định thi hành án của Tòa án đang giam giữ tại các trại tạm giam, nhà tạm giữ (sau đây gọi chung là phạm nhân) bị trích xuất đến cơ sở giam, giữ khác để phục vụ việc điều tra, truy tố, xét xử thì thời hạn trích xuất, thời hạn gia hạn trích xuất được tính vào thời hạn chấp hành án phạt tù, trừ trường hợp phạm nhân đó bỏ trốn khỏi nơi giam trong thời gian được trích xuất (khoản 1 Điều 6 của Thông tư liên tịch số: 04/2013/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 30/5/2013 của Bộ Công an - Bộ Quốc phòng - Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiếm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện trích xuất phạm nhân để phục vụ điều tra, truy tố, xét xử). Thẩm quyền tổng hợp hình phạt là của Hội đồng xét xử đang xét xử vụ án.

Ví dụ 1: Ngày 03/01/2019, Nguyễn Văn B bị Tòa án huyện X tuyên phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 04/02/2019 là ngày bản án có hiệu lực pháp luật. Ngày 05/02/2019, Chánh án Tòa án huyện X chưa ra quyết định thi hành án thì B bị đưa ra xét xử về hành vi cố ý gây thương cho người khác tại Nhà tạm giữ Công an huyện X. Trường hợp này khi xét xử hành vi phạm tội cố ý gây thương tích của B thì Tòa án huyện X tổng hợp hình phạt theo khoản 2 Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Ví dụ 2: Trần H đang chấp hành án tại Trại giam B thuộc Bộ Công an. Trong thời gian chấp hành án H có hành vi cố ý gây thương tích cho phạm nhân khác cũng đang chấp hành án tại Trại giam B. Trường hợp này khi xét xử hành vi phạm tội cố ý gây thương tích của H thì Tòa án sẽ tổng hợp hình phạt theo khoản 2 Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015.

1.3 Trường hợp một người phải chấp hành nhiều bản án đã có hiệu lc pháp luật mà các hình phạt của các bản án chưa được tổng hợp (khoản 3 Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015)

Việc tổng hợp hình phạt theo khoản 1 và khoản 2 Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015 có một điều kiện bắt buộc chung là người bị Tòa án xét xử phải là người đang chấp hành một bản án, tức là đã có một bản án có hiệu lực pháp luật kết tội người đó về một tội nào đó. Cho nên quy định tại khoản 3 Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015 là để tổng hợp hình phạt của nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật nếu như khi xét xử Tòa án không thể tổng hợp hình phạt theo khoản 1 và khoản 2 Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015. Thẩm quyền tổng hợp hình phạt là của Chánh án Tòa án mà không phải là Hội đồng xét xử.

Ví dụ: Ngày 03/01/2019, Tòa án nhân dân huyện X tuyên phạt bị cáo Nguyễn Văn B 01 năm tù về tội “trộm cắp tài sản”. Ngày 15/01/2019, Tòa án nhân dân huyện Y lại xét xử Nguyễn Văn B về tội “Cố ý gây thương tích”. Trong trường hợp này, Tòa án dân dân huyện Y không thể áp dụng khoản 1 Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015 để tổng hợp hình phạt. Vì bản án kết tội Nguyễn Văn B của Tòa án nhân dân huyện X chưa có hiệu lực pháp luật. Trong trường hợp này, Chánh án Tòa án nhân dân huyện Y sẽ tổng hợp hình phạt khi hai bản án của Tòa án nhân dân huyện X và Tòa án nhân dân huyện Y có hiệu lực pháp luật.

Hiện nay, chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về việc tổng hợp hình phạt của nhiều bản án có hiệu lực pháp luật theo quy định tại khoản 3 Điều 56 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Tuy nhiên, việc tổng hợp hình phạt của nhiều bản án có hiệu lực pháp luật hiện nay có thể tham khảo hướng dẫn tại mục 5 của Thông tư liên tịch 02/TT-LN ngày 20/12/1991 của Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Nội dung cụ thể như sau:

- Trong trường hợp các bản án đã có hiệu lực pháp luật đều của cùng một Tòa án thì Chánh án Tòa án đó ra quyết định tổng hợp hình phạt.

- Trong trường hợp các bản án đã có hiệu lực pháp luật là của các Tòa án khác nhau nhưng cùng cấp (cùng cấp huyện trong một tỉnh hoặc khác tỉnh, cùng cấp tỉnh, cùng cấp khu vực, cùng cấp quân khu) thì Chánh án Tòa án ra bản án sau cùng (về mặt thời gian) ra quyết định tổng hợp hình phạt, cụ thể là: nếu các bản án đã có hiệu lực pháp luật là của các Tòa án cấp huyện khác nhau (trong cùng một tỉnh hay khác tỉnh) thì Chánh án Tòa án cấp huyện đã ra bản án sau cùng ra quyết định tổng hợp hình phạt; nếu các bản án đã có hiệu lực pháp luật là của các Tòa án quân sự khu vực khác nhau (trong cùng một quân khu hay khác quân khu) thì Chánh án Tòa án quân sự khu vực đã ra bản án sau cùng quyết định tổng hợp hình phạt; nếu các bản án đã có hiệu lực pháp luật đều là của các Toà án cấp tỉnh (hoặc đều là của Tòa án quân sự cấp quân khu) thì Chánh án Tòa án cấp tỉnh (hoặc Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu) ra bản án sau cùng ra quyết định tổng hợp hình phạt.

- Trong trường hợp các bản án đã có hiệu lực pháp luật là của các Tòa án không cùng cấp thì Chánh án Tòa án cấp cao hơn ra quyết định tổng hợp hình phạt, không phụ thuộc vào việc bản án của Tòa án cấp cao hơn có trước hay có sau.

- Trong trường hợp trong số các bản án đã có hiệu lực pháp luật có bản án của Tòa án nhân dân, có bản án của Tòa án quân sự, thì việc tổng hợp hình phạt cũng được thực hiện tương tự như hướng dẫn tại các điểm b, c trên đây, cụ thể là: Nếu các bản án đã có hiệu lực pháp luật là của Tòa án cấp huyện và của Tòa án quân sự khu vực hoặc là của Tòa án cấp tỉnh và của Tòa án quân sự cấp quân khu, thì Chánh án Tòa án đã ra bản án sau cùng ra quyết định tổng hợp hình phạt ra quyết định; nếu các bản án đã có hiệu lực pháp luật là của các toà án khác nhau và khác cấp thì Chánh án Tòa án cấp cao hơn ra quyết định tổng hợp hình phạt, không phụ thuộc vào việc bản án của Tòa án cấp cao hơn có trước hay có sau (ví dụ: có bản án là của Tòa án nhân huyện, có bản án là của Tòa án quân sự quân khu thì Chánh án Tòa án quân sự quân khu ra quyết định tổng hợp hình phạt, không phụ thuộc vào việc bản án của Tòa án quân sự quân khu có trước hay có sau bản án của Tòa án nhân dân huyện).

- Trong trường hợp trong số các bản án đã có hiệu lực pháp luật có bản án là của Tòa án nước ngoài đã được Tòa án Việt Nam công nhận, có bản án là của Tòa án Việt nam thì Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ra quyết định tổng hợp hình phạt.

2. Một số vướng mắc về tổng hợp hình phạt trong thực tiễn

Qua nghiên cứu quy định tại Điều 6 Bộ luật Hình sự năm 2015 và công tác thực tiễn xét xử tại Tòa án, tác giả thấy việc tổng hợp hình phạt của nhiều bản án có một số vướng mắc hoặc quy định cần được hướng dẫn như sau:

2.1. Thời điểm xác định một người đang chấp hành một bản án

Như đã trình bày, thời điểm để xác định một người đang chấp hành một bản án được quy định tại khoản 1, 2 Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015 hiện nay còn có quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng một người đang chấp hành một bản án là khi người đó thực tế đã bắt đầu chấp hành một bản án đã có hiệu lực pháp luật tại một trại giam hoặc đã có quyết định thi hành án của Tòa án đang giam giữ tại các trại tạm giam, nhà tạm giữ. Nhưng có quan điểm cho rằng một người đang chấp hành một bản án là khi bản án hình sự đã có hiệu lực pháp luật, vì khi bản án có hiệu lực pháp luật đương nhiên người bị kết án phải chấp hành bản án. Việc xác định thời điểm một người đang chấp hành một bản án có ý nghĩa hết sức quan trọng, vì Tòa án chỉ được tổng hợp hình phạt theo khoản 1, 2 Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015 khi thỏa mãn điều kiện chung là người bị xét xử phải là người đang chấp hành một bản án.

2.2. Cách tính thời gian đã chấp hành bản án trong trường người bị xét xử là phạm nhân bị trích xuất để tạm giam

Tại khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 có quy định như sau: “Khi tính thời hạn theo tháng thì thời hạn hết vào ngày trùng của tháng sau; nếu tháng đó không có ngày trùng thì thời hạn hết vào ngày cuối cùng của tháng đó; nếu thời hạn hết vào ngày nghỉ thì ngày làm việc đầu tiên tiếp theo được tính là ngày cuối cùng của thời hạn. Khi tính thời hạn tạm giữ, tạm giam thì thời hạn hết vào ngày kết thúc thời hạn được ghi trong lệnh, quyết định. Nếu thời hạn được tính bằng tháng thì 01 tháng được tính là 30 ngày”. Như vậy, khác với các loại thời hạn khác trong tố tụng hình sự, thời hạn tạm giam thì phải tính một tháng là 30 mươi ngày.

Khi tổng hợp hình phạt theo khoản 2 Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì Tòa án phải tính thời gian bị cáo đã chấp hành bản án trước được bao lâu thì khi đó mới biết thời gian bị cáo chưa chấp hành của bản án trước. Thông thường trong trường hợp phạm nhân phạm tội thì thường sẽ bị trích xuất ra ngoài để tạm giam phục vụ điều tra, truy tố, xét xử. Theo quy định tại khoản 1 Điều 6 của Thông tư liên tịch số: 04/2013/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 30/5/2013 của Bộ Công an - Bộ Quốc phòng - Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiếm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện trích xuất phạm nhân để phục vụ điều tra, truy tố, xét xử thì trường hợp phạm nhân đang chấp hành án phạt tù tại trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ; người bị kết án tù mà bản án đã có hiệu lực pháp luật, đã có quyết định thi hành án của Tòa án đang giam giữ tại các trại tạm giam, nhà tạm giữ (sau đây gọi chung là phạm nhân) bị trích xuất đến cơ sở giam, giữ khác để phục vụ việc điều tra, truy tố, xét xử thì thời hạn trích xuất, thời hạn gia hạn trích xuất được tính vào thời hạn chấp hành án phạt tù, trừ trường hợp phạm nhân đó bỏ trốn khỏi nơi giam trong thời gian được trích xuất. Vướng mắc trong thực tiễn hiện nay là việc thời giam bị cáo đã chấp bản án trước được tính như thế nào thì có hai quan điểm khác nhau: (i) Quan điểm thứ nhất là, phải tính thời gian liên tục từ khi bị cáo chấp hành bản án trước đến ngày Tòa án xét xử; (ii) Quan điểm thứ hai là phải tính thành hai khoản thời gian: một là từ lúc bị cáo bắt đầu chấp hành bản án trước đến ngày bị cáo bị trích xuất; hai là từ thời điểm bị cáo bị trích xuất để tạm giam đến ngày tòa án xét xử (thời gian này là thời gian tạm giam nên phải tính một tháng 03 ngày). Tuy nhiên, qua nghiên cứu và thử tính thì thời gian theo hai cách tính là khác nhau.

Ví dụ: Theo bản án của Tòa án huyện X, bị cáo A phải chấp hành hình phạt tù là 03 năm. Thời gian chấp hành hình phạt từ tính từ ngày 01/02/2018. Ngày 01/02/2019, bị cáo A bị trích xuất để phục vụ điều tra. Ngày 02/02/2019, A bị ra Lệnh tạm giam là 60 ngày. Ngày 14/3/2019, bị cáo A bị Tòa án huyện Y xử phạt 01 năm tù. Theo quan điểm thứ nhất, thời gian bị cáo đã chấp hành bản án trước là từ ngày 01/02/2018 đến ngày 14/3/2019 (tức là được 01 năm 01 tháng 13 ngày). Theo quan điểm thứ hai, thời gian bị cáo A đã chấp hành bản án trước được tính như sau: (i) Từ ngày 01/02/2018 đến hết ngày 01/02/2019 là 01 năm; (ii) Từ ngày 02/02/2019 đến ngày 14/3/2019 là 41 ngày (tức 01 tháng 11 ngày). Cho nên thời gian bị cáo A đã chấp hành của bản án trước là 01 năm 01 tháng 11 ngày.

2.3. Tòa án nhân dân cấp huyện có được tổng hợp hình phạt nếu hình phạt chung là trên 15 năm tù, chung thân hoặc tử hình

Vấn đề Tòa án nhân dân cấp huyện có được tổng hợp hình phạt nếu hình phạt chung là trên 15 năm tù, chung thân hoặc tử hình hay không hiện còn quan điểm khác nhau trong thực tiễn. Mặc dù thẩm quyền xét xử và thẩm quyền tổng hợp hình phạt là hai vấn đề khác nhau nhưng có một điều theo qua điểm tác giả cần lưu ý là việc thi hành phạt cuối cùng là phải theo bản án đã tổng hợp hình phạt. Chính vì vậy, trước đây tại Nghị quyết số 02/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao bổ sung một số hướng dẫn của Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 và Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có hướng dẫn tại khoản 2 Điều 1 như sau: “Trường hợp bị cáo bị truy tố về một hoặc một số tội thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện mà khi thụ lý vụ án xét thấy bị cáo đã bị áp dụng hình phạt tù chung thân hoặc tử hình tại một bản án khác và bản án đó đã có hiệu lực pháp luật thì Tòa án nhân dân cấp huyện phải báo cáo với Tòa án nhân dân cấp tỉnh để Tòa án nhân dân cấp tỉnh thống nhất với Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh rút hồ sơ vụ án lên để truy tố, xét xử ở cấp tỉnh”. Như vậy, theo quan điểm tác giả nếu Tòa án nhân dân cấp huyện mà khi thụ lý vụ án xét thấy bị cáo đã bị áp dụng hình phạt tù chung thân hoặc tử hình tại một bản án khác và bản án đó đã có hiệu lực pháp luật hoặc nếu thấy việc tổng hợp hình phạt là trên 15 năm tù thì Tòa án nhân dân cấp huyện phải báo cáo với Tòa án nhân dân cấp tỉnh để Tòa án nhân dân cấp tỉnh thống nhất với Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh rút hồ sơ vụ án lên để truy tố, xét xử ở cấp tỉnh. Tuy nhiên, để thực tiễn áp dụng pháp luật cho thống nhất thì vấn đề này rất cần được hướng dẫn cụ thể hơn.

2.4. Chánh án Tòa án nào có quyền tổng hợp hình phạt theo khoản 3 Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015

Qua nghiên cứu thì quy định Chánh án Tòa án tổng hợp hình phạt của nhiều bản án có hiệu lực pháp luật theo khoản 3 Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015 hiện nay chưa được hướng dẫn. Theo tác giả việc tổng hợp hình phạt của nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật hiện nay có thể vận dụng theo tinh thần quy định tại mục 5 của Thông tư liên tịch 02/TT-LN ngày 20/12/1991 của Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao mà tác giả đã trình bày. Tuy nhiên, để việc áp dụng pháp luật cho thống nhất thì quy định tại khoản 3 Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015 cần được hướng dẫn lại cho cụ thể vì hiện nay có quan điểm cho rằng Thông tư liên tịch 02/TT-LN ngày 20/12/1991 của Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã hết hiệu lực pháp luật.

Dương Tấn Thanh

Tòa án nhân dân thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Trường Cao đẳng Luật miền Bắc được nâng cấp từ Trường Trung cấp Luật Thái Nguyên theo Quyết định số 869/QĐ-LĐTBXH ngày 10/7/2020 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (nay là Bộ Nội vụ), đã kế thừa hơn một thập kỷ kinh nghiệm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ pháp lý cấp cơ sở, đặc biệt, tại khu vực trung du và miền núi phía Bắc.
Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Bộ Tư pháp đã trang bị, bổ sung, ứng dụng các công nghệ mới như máy chủ ảo hóa, lưu trữ SAN; máy chủ ứng dụng, máy chủ cơ sở dữ liệu cho Trung tâm dữ liệu điện tử để đáp ứng yêu cầu quản lý, vận hành và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp.
Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Bài viết về những thành tựu nổi bật và định hướng phát triển công tác hành chính tư pháp trong thời gian tới.
Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Tạp chí) là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, có chức năng thông tin về khoa học pháp lý, thông tin lý luận, nghiệp vụ và thực tiễn trong xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp của Bộ, ngành Tư pháp; tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước theo quy định pháp luật; đồng thời, là diễn đàn trao đổi học thuật, thực tiễn và chính sách trong lĩnh vực pháp luật[1].
Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Để bảo đảm cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2026-2031 được tiến hành dân chủ, đúng pháp luật và thống nhất trên phạm vi cả nước, Hội đồng bầu cử quốc gia (HĐBCQG) được thành lập, giữ vai trò tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH); chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND). Việc tìm hiểu cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của HĐBCQG có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và cử tri thực hiện quyền làm chủ của mình, đồng thời giúp cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan thực hiện tốt nhiệm vụ trong công tác bầu cử.
Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Bài viết phân tích một số thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới của Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp.
Trợ giúp pháp lý - Điểm tựa pháp lý cho tuổi vị thành niên lầm lỡ

Trợ giúp pháp lý - Điểm tựa pháp lý cho tuổi vị thành niên lầm lỡ

Lứa tuổi vị thành niên là giai đoạn các em đang hình thành nhân cách, dễ bồng bột, thiếu kỹ năng kiểm soát cảm xúc và nhận thức pháp luật còn hạn chế. Nếu không được định hướng, các em rất dễ sa vào những hành vi vi phạm pháp luật đáng tiếc. Chỉ một phút nóng giận, một quyết định bồng bột… cũng đủ khiến tuổi trẻ phải trả giá bằng cả những tháng ngày sau song sắt. Thế nhưng, trong câu chuyện buồn ấy, vẫn có một điểm sáng nhân văn - đó là bàn tay nâng đỡ của trợ giúp pháp lý miễn phí, để một thiếu niên lầm lỡ có cơ hội sửa sai và làm lại từ đầu.
Lịch trình pháp lý cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031

Lịch trình pháp lý cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031

Bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH) và đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND) là sự kiện chính trị trọng đại, được tiến hành theo trình tự chặt chẽ, bảo đảm dân chủ, bình đẳng và đúng pháp luật. Trong tiến trình ấy, Luật Bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND (Luật Bầu cử) quy định cụ thể các mốc thời gian thực hiện. Đây vừa là cơ sở bảo đảm tính logic, vừa là căn cứ cho sự minh bạch và thống nhất trong toàn bộ quy trình. Lịch trình pháp lý được xác định trên cơ sở ngày bầu cử đã được ấn định cho mỗi kỳ bầu cử.
Dấu mốc quan trọng tạo lập khung pháp lý cho thị trường tài sản mã hóa

Dấu mốc quan trọng tạo lập khung pháp lý cho thị trường tài sản mã hóa

Ngày 09/9/2025, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 05/2025/NQ-CP về việc triển khai thí điểm thị trường tài sản mã hóa tại Việt Nam. Nghị quyết được ban hành đánh dấu bước đi quan trọng tạo khung khổ pháp lý để quản lý, kiểm soát chặt chẽ, minh bạch hóa thị trường tài sản mã hóa, hướng tới định hình thị trường tài sản số.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Cần kịp thời hoàn thiện và tổ chức thực hiện hiệu quả chính sách pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Cần kịp thời hoàn thiện và tổ chức thực hiện hiệu quả chính sách pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc triển khai Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 22/01/2019 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và trách nhiệm quản lý của Nhà nước đối với công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng vẫn còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế nhất định, đòi hỏi phải kịp thời hoàn thiện chính sách pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
14 trường hợp được miễn học phí từ năm học 2025-2026

14 trường hợp được miễn học phí từ năm học 2025-2026

Đây là một trong những điểm mới đáng chú ý trong chính sách miễn, giảm, hỗ trợ học phí, hỗ trợ chi phí học tập của Chính phủ.
HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở HÀ TĨNH THÁCH THỨC VÀ YÊU CẦU ĐỔI MỚI TỪ THỰC TIỄN

HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở HÀ TĨNH THÁCH THỨC VÀ YÊU CẦU ĐỔI MỚI TỪ THỰC TIỄN

Trợ giúp pháp lý là chính sách nhân văn sâu sắc, thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đặc biệt là những người yếu thế trong xã hội, người có công với cách mạng. Đồng thời, đây cũng là công cụ quan trọng nhằm bảo đảm công lý, để mọi người dân đều được tiếp cận pháp luật bình đẳng, góp phần hiện thực hóa mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Giải pháp khắc phục vướng mắc trong sử dụng Phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch phục vụ vận hành chính quyền địa phương 02 cấp

Giải pháp khắc phục vướng mắc trong sử dụng Phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch phục vụ vận hành chính quyền địa phương 02 cấp

Ngày 15/8/2025, Bộ Tư pháp đã có Văn bản số 5006/BTP-HCTP về giải pháp khắc phục các khó khăn, vướng mắc trong sử dụng Phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch phục vụ vận hành chính quyền địa phương 02 cấp gửi Văn phòng Trung ương Đảng, trong đó, xác định rõ nguyên nhân và những giải pháp để kịp thời khắc phục các khó khăn, vướng mắc.
Thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, biện pháp đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, biện pháp đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Theo Pháp lệnh số 08/2025/UBTVQH15 được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 27/6/2025, kể từ ngày 01/7/2025, Tòa án nhân dân khu vực có thẩm quyền theo lãnh thổ tiếp nhận nhiệm vụ xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân, đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng mà Tòa án nhân dân cấp huyện đang giải quyết.
Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3, tỉnh Lào Cai quyết tâm bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người dân sau sáp nhập

Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3, tỉnh Lào Cai quyết tâm bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người dân sau sáp nhập

Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3, tỉnh Lào Cai được thành lập ngày 01/7/2025 trên cơ sở hợp nhất Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3 huyện Văn Bàn (cũ) và Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 4 huyện Bảo Yên (cũ). Từ khi được thành lập, Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3 thích ứng mô hình chính quyền địa phương hai cấp, bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người dân sau sáp nhập.

Theo dõi chúng tôi trên:

he-thong-benh-vien-quoc-te-vinmec
nha-hang-thai-village
delta-group
khach-san-ladalat
trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
truong-dai-hoc-y-duoc-dai-hoc-quoc-gia-ha-noi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm
cong-ty-co-phan-loc-hoa-dau-binh-son
sofitel-legend-metropole-ha-noi