Thứ năm 12/06/2025 17:04
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Một số ý kiến đối với dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Việc ban hành nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 34/2016/NĐ-CP) và Nghị định số 154/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 34/2016/NĐ-CP (Nghị định số 154/2020/NĐ-CP) là rất cần thiết, cấp bách, bởi vì, qua quá trình triển khai dù đã thu được nhiều kết quả đáng ghi nhận nhưng vẫn tồn tại một số hạn chế, bất cập cần sớm sửa đổi, bổ sung hoàn thiện để nâng cao hiệu quả công tác xây dựng, ban hành, kiểm tra, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL).

Để góp phần hoàn thiện văn bản pháp lý quan trọng này, tác giả có một số ý kiến như sau:

Thứ nhất, theo dự kiến tại điểm a khoản 5 Điều 1 Dự thảo (sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 10 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP), Hồi đồng nhân dân (HĐND) cấp tỉnh có thể quyết định việc gửi hồ sơ đề nghị xây dựng VBQPPL đến bộ, cơ quan ngang bộ quản lý ngành, lĩnh vực có liên quan để lấy ý kiến. Theo quy định, hồ sơ đề nghị xây dựng VBQPPL là nghị quyết của HĐND cấp tỉnh được Thường trực HĐND cấp tỉnh xem xét, quyết định việc xây dựng. Bên cạnh đó, khi quy định HĐND quyết định việc gửi hồ sơ đề nghị xây dựng VBQPPL để lấy ý kiến thì nội dung này phải đưa vào kỳ họp (họp thường kỳ hoặc chuyên đề) của HĐND, làm kéo dài thời gian xây dựng, ban hành văn bản. Vì vậy, đề nghị xem xét quy định theo hướng Thường trực HĐND cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh có thể quyết định việc gửi hồ sơ đề nghị xây dựng VBQPPL đến bộ, cơ quan ngang bộ quản lý ngành, lĩnh vực có liên quan để lấy ý kiến.

Thứ hai, tại điểm b khoản 5 Điều 1 dự thảo (sửa đổi, bổ sung khoản 6 Điều 10 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP) quy định: “Trước khi gửi hồ sơ đề nghị xây dựng VBQPPL để thẩm định, cơ quan lập đề nghị phải đăng tải Bản tổng hợp, giải trình tiếp thu ý kiến trên Công thông tin điện tử của Chính phủ, Cổng thông tin điện tử của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương...”. Quy định trên hướng tới mục đích làm tăng tính minh bạch của quy định được dự kiến, cũng như làm tăng trách nhiệm giải trình của cơ quan chủ trì soạn thảo. Tuy nhiên, cũng đồng thời làm tăng thời gian xây dựng văn bản nói chung, thời gian lập đề nghị xây dựng văn bản nói riêng. Vì vậy, theo tác giả, đề nghị xem xét, quy định theo hướng cùng với việc gửi hồ sơ đề nghị để thẩm định, cơ quan lập đề nghị phải đề nghị đăng tải bản tổng hợp, giải trình tiếp thu ý kiến trên cổng thông tin điện tử của Chính phủ, cổng thông tin điện tử của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; đăng tải trên cổng thông tin hoặc trang thông tin điện tử của cơ quan lập đề nghị.

Thứ ba, tại điểm c, khoản 5 Điều 1 dự thảo Nghị định (dự kiến bổ sung khoản 7 vào Điều 10 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP) quy định: “Cơ quan chủ trì lập đề nghị xây dựng VBQPPL có trách nhiệm truyền thông nội dung chính sách trong quá trình lập đề nghị xây dựng VBQPPL”. Với quy định dự kiến nêu trên được hiểu, cơ quan chủ trì lập đề nghị xây dựng VBQPPL có trách nhiệm truyền thông tất cả nội dung chính sách trong quá trình lập đề nghị xây dựng VBQPPL. Tuy nhiên, tác giả nhận thấy, đối với chính sách có nội dung thuộc bí mật nhà nước thì không thực hiện việc truyền thông theo quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước. Bên cạnh đó, khi cơ quan chủ trì soạn thảo dự kiến tham mưu quy định truyền thông tất cả nội dung chính sách trong quá trình lập đề nghị xây dựng VBQPPL thì cũng cần nghiên cứu, bổ sung các quy định khác có liên quan làm cơ sở tổ chức thi hành, đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ trong quá trình thực hiện (như hình thức truyền thông, nội dung thể hiện hoạt động truyền thông dự thảo chính sách trong thành phần hồ sơ đề nghị xây dựng, ban hành VBQPPL…); đồng thời, thuyết minh cơ sở pháp lý, cơ sở thực tiễn và sự cần thiết ban hành quy định dự kiến nêu trên[1].

Thứ tư, đề nghị cơ quan soạn thảo xem xét lại nội dung quy định tại điểm b, khoản 10 Điều 1 dự thảo Nghị định (bổ sung khoản 5 vào Điều 25 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP) về trách nhiệm của cơ quan chủ trì soạn thảo trong truyền thông nội dung cơ bản của dự án, dự thảo VBQPPL trong giai đoạn lấy ý kiến.

Thứ năm, liên quan đến trách nhiệm của Sở Tư pháp trong tổ chức họp tư vấn thẩm định; thành lập và hoạt động của Hội đồng tư vấn thẩm định, Hội đồng thẩm định; cuộc họp của Hội đồng tư vấn thẩm định, Hội đồng thẩm định dự kiến tại điểm a khoản 16, khoản 17, khoản 18 Điều 1 dự thảo Nghị định (dự kiến sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 49 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP; Điều 50 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 154/2020/NĐ-CP; Điều 51 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP), theo tác giả, cơ quan chủ trì soạn thảo cần nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề sau:

(i) Tại khoản 17 Điều 1 dự thảo Nghị định (dự kiến sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 50 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 154/2020/NĐ-CP) quy định Giám đốc Sở Tư pháp có trách nhiệm thành lập Hội đồng tư vấn thẩm định, Hội đồng thẩm định trong các trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 50 (dự kiến sửa đổi, bổ sung theo khoản 17 Điều 1 dự thảo).

Trên thực tế, để thành lập được Hội đồng thẩm định, Hội đồng tư vấn thẩm định mất rất nhiều thời gian; nhiều cơ quan không cử thành viên tham gia Hội đồng; ý kiến thành viên Hội đồng chủ yếu là của thành viên đại diện Sở Tư pháp... Vì vậy, để đảm bảo tính linh hoạt, đảm bảo thời hạn thẩm định (đặc biệt thẩm định các dự thảo được xây dựng, ban hành theo trình tự thủ tục rút gọn) đề nghị cân nhắc quy định theo hướng: Giám đốc Sở Tư pháp có trách nhiệm thành lập Hội đồng thẩm định, Hội đồng tư vấn thẩm định đối với dự thảo do Sở Tư pháp chủ trì soạn thảo; xem xét, quyết định thành lập Hội đồng thẩm định, Hội đồng tư vấn thẩm định đối với dự thảo có nội dung phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực.

Ngoài ra, khoản 1 Điều 50 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP (dự kiến sửa đổi, bổ sung theo khoản 17 Điều 1 dự thảo) đã quy định Giám đốc Sở Tư pháp có trách nhiệm thành lập Hội đồng tư vấn thẩm định, Hội đồng thẩm định trong các trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 50, tuy nhiên, khoản 2 Điều 50 (dự kiến sửa đổi, bổ sung theo khoản 17 Điều 1 dự thảo) tiếp tục quy định: Đối với trường hợp thẩm định dự thảo có nội dung phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực hoặc do Sở Tư pháp chủ trì soạn thảo thì đại diện Sở Tư pháp không quá 1/3 tổng số thành viên Hội đồng. Tác giả nhận thấy quy định lặp lại như trên là không cần thiết, gây khó hiểu. Vì vậy, đề nghị xem xét, biên tập lại theo hướng: “... Đối với trường hợp Hội đồng tư vấn thẩm định, Hội đồng thẩm định được thành lập theo quy định tại khoản 1 Điều này, đại diện Sở Tư pháp không quá 1/3 tổng số thành viên Hội đồng”.

(ii) Tại khoản 17 Điều 1 dự thảo Nghị định (dự kiến sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 50 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 154/2020/NĐ-CP) quy định: “Hội đồng gồm Chủ tịch là lãnh đạo Sở Tư pháp, Thư ký là đại diện Sở Tư pháp và các thành viên là đại diện các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cơ quan, tổ chức khác có liên quan, các chuyên gia, nhà khoa học. Tổng số thành viên của Hội đồng do Giám đốc Sở Tư pháp quyết định. Đối với trường hợp thẩm định dự thảo có nội dung phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực hoặc do Sở Tư pháp chủ trì soạn thảo thì đại diện Sở Tư pháp không quá 1/3 tổng số thành viên Hội đồng”. Với quy định được dự kiến nêu trên là chưa rõ thư ký là đại diện Sở Tư pháp có đóng vai trò là thành viên Hội đồng hay không? Và vì chưa rõ thư ký là đại diện Sở Tư pháp có đóng vai trò là thành viên Hội đồng hay không nên cũng chưa rõ thư ký là đại diện Sở Tư pháp có chịu sự điều chỉnh của quy định đại diện Sở Tư pháp không quá 1/3 tổng số thành viên Hội đồng hay không? Đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo xem xét, chỉnh lý lại để cụ thể hóa vai trò của thư ký Hội đồng trong trường hợp nêu trên.

(iii) Điểm d khoản 3 và khoản 4 Điều 51 Nghị định số 43/2016/NĐ-CP (dự kiến sửa đổi, bổ sung theo khoản 18 Điều 1 dự thảo Nghị định) quy định Chủ tịch Hội đồng kết luận và nêu rõ ý kiến về việc dự thảo đủ điều kiện hoặc không đủ điều kiện trình UBND cấp tỉnh; thư ký Hội đồng trình Chủ tịch Hội đồng ký Báo cáo thẩm định. Như vậy, với quy định trên, Hội đồng thẩm định và Hội đồng tư vấn thẩm định đều kết luận dự thảo đủ hoặc chưa đủ điều kiện trình. Tuy nhiên, về bản chất, Hội đồng tư vấn thẩm định dự thảo Nghị quyết chỉ giữ vài trò “tư vấn thẩm định” mà không thẩm định, không quyết định dự thảo đủ điều kiện hoặc không đủ điều kiện trình UBND cấp tỉnh. Khi Hội đồng tư vấn thẩm định chỉ giữ vai trò “tư vấn thẩm định” thì yêu cầu đặt ra phải tiếp tục phải có Hội đồng/đơn vị giữ vai trò thẩm định trên cơ sở “tư vấn thẩm định” của Hội đồng tư vấn thẩm định. Từ những vấn đề nêu trên, đề nghị nghiên cứu, quy định theo hướng, khi có báo cáo của Hội đồng tư vấn thẩm định, cơ quan thẩm định nghiên cứu, tham khảo báo cáo của Hội đồng tư vấn thẩm định để xây dựng báo cáo thẩm định. Đối với dự thảo do Sở Tư pháp chủ trì soạn thảo thì trong hồ sơ trình chỉ cần báo cáo tư vấn thẩm định.

Thứ năm, theo quy định tại khoản 1 Điều 103 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP (dự kiến sửa đổi, bổ sung tại khoản 21 Điều 1 dự thảo), văn bản được kiểm tra là các văn bản sau xác định có dấu hiệu trái luật, gồm thông tư, thông tư liên tịch, nghị quyết, quyết định, văn bản có chứa quy phạm pháp luật nhưng không được ban hành bằng hình thức VBQPPL… Tác giả nhận thấy, quy định trên là chưa hợp lý, văn bản chỉ xác định được có dấu hiệu trái pháp luật sau khi kiểm tra. Nói cách khác, phải thông qua kiểm tra mới xác định được văn bản có dấu hiệu trái hay không. Vì vậy, đề nghị xem xét, giữ nguyên như quy định hiện hành.

Thứ sáu, tại khoản 19 Điều 1 dự thảo Nghị định (dự kiến sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 64 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP) quy định: “Đối với văn bản ban hành kèm theo văn bản khác, thì văn bản được ban hành kèm theo phải được đóng dấu treo của cơ quan ban hành văn bản”. Tác giả nhận thấy, Điều 4 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 quy định hệ thống VBQPPL do cơ quan, người có thẩm quyền ban hành. Do đó, việc cơ quan chủ trì soạn thảo quy định đối với văn bản ban hành kèm theo văn bản khác, thì văn bản được ban hành kèm theo phải được đóng dấu treo của chỉ cơ quan ban hành văn bản là chưa đầy đủ (Ví dụ: Văn bản do Thủ tướng Chính phủ ban hành thì phải đóng dấu của Thủ tướng Chính phủ). Vì vậy, đề nghị nghiên cứu, bổ sung cho đầy đủ, phù hợp với thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Thứ bảy, tác giả cho rằng để đảm bảo chính xác, thống nhất, phù hợp với các điều đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 154/2020/NĐ-CP, đề nghị rà soát, chỉnh lý tên gọi một số khoản của Điều 1 dự thảo Nghị định (một số điều của Nghị định số 34/2016/NĐ-CP chưa được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 154/2020/NĐ-CP nhưng vẫn có tên là “… được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 154/2020/NĐ-CP”).

ThS. Phạm Văn Chung

Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum


[1] Theo Quyết định số 407/QĐ-TTg ngày 30/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Tổ chức truyền thông chính sách có tác động lớn đến xã hội trong quá trình xây dựng VBQPPL giai đoạn 2022 - 2027” thì Đề án được áp dụng đối với các dự thảo chính sách có đủ các tiêu chí sau: (i) Là các chính sách được ban hành trong các VBQPPL mà Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định phải lập đề nghị xây dựng VBQPPL trước khi tiến hành soạn thảo, trừ các nội dung thuộc bí mật nhà nước theo quy định của pháp luật; (ii) Tác động trực tiếp làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ của người dân, tổ chức, doanh nghiệp; (iii) Được xác định là những vấn đề khó, nhạy cảm, dư luận xã hội quan tâm hoặc có nhiều ý kiến khác nhau về nội dung dự thảo chính sách; (iv) Chính sách có tác động trên phạm vi cả nước hoặc trên phạm vi toàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Bên cạnh đó, ngoài các dự thảo chính sách nêu trên, các cơ quan chủ trì soạn thảo VBQPPL căn cứ nội dung dự thảo chính sách hoặc dự thảo quy định, yêu cầu và điều kiện thực tiễn, chủ động thực hiện việc truyền thông các chính sách do mình tham mưu xây dựng hoặc trực tiếp ban hành.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 194/2025/QH15 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo cơ sở pháp lý thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Bài viết nghiên cứu, phân tích về những nội dung cần bổ sung vào chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để thực hiện việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đang lấy ý kiến nhân dân để thực hiện các chủ trương của Đảng về việc sắp xếp lại chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, không tổ chức cấp huyện. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi bộ máy hành chính phải được tổ chức khoa học, tinh, gọn, minh bạch, hiệu quả nhằm tạo đà cho đất nước phát triển càng trở lên cấp thiết. Xuất phát từ thực trạng tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã và đòi hỏi của thực tiễn, bài viết đề xuất một số gợi mở về đổi mới tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã trong thời gian tới.
Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội như hiện nay, việc tổ chức lại bộ máy chính quyền theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (dự thảo Nghị quyết) là yêu cầu tất yếu. Điều này đòi hỏi phải cải cách toàn diện cả về cấu trúc chiều ngang (sáp nhập địa giới hành chính) và chiều dọc (rút gọn cấp chính quyền trung gian) nhằm mở rộng không gian phát triển, tăng cường tính liên kết giữa trung ương và cơ sở, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân. Bài viết nghiên cứu mô hình tổ chức chính quyền địa phương gắn với địa bàn cụ thể dưới góc nhìn từ cơ sở (Tây Nguyên) để đưa ra những phân tích, nhận định và đề xuất giải pháp cho việc cải cách chính quyền địa phương theo dự thảo Nghị quyết.
So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

Bài viết phân tích, nghiên cứu thiết chế chính quyền địa phương ở Cộng hòa Pháp và Việt Nam; so sánh một số điểm tương đồng, khác biệt về tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương theo hiến pháp của hai nước. Trên cơ sở mô hình tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương của Cộng hòa Pháp, bài viết đề xuất một số kiến nghị để Việt Nam nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cuộc “cách mạng” về tinh gọn bộ máy theo các chủ trương, chính sách của Đảng và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.
Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử. Trên cơ sở nhận diện những khó khăn, vướng mắc, bài viết đề xuất các khuyến nghị để xây dựng khung pháp lý toàn diện, hiệu quả hơn trong việc tích hợp trí tuệ nhân tạo vào công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời gian tới.

Trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bài viết phân tích, đánh giá một số khía cạnh pháp lý, kinh tế của chế độ trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện về chế độ trách nhiệm hữu hạn trong pháp luật doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam.

Hoàn thiện quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dùng vào việc thờ cúng

Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng qua các thời kỳ và thực tiễn áp dụng pháp luật qua công tác xét xử của Tòa án đối với tranh chấp liên quan đến chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng, từ đó, đưa ra một số gợi mở nhằm hoàn thiện chế định này.
Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Sau hơn 11 năm triển khai thi hành, Hiến pháp năm 2013 đã tạo cơ sở hiến định quan trọng cho việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Bên cạnh những kết quả đạt được, hiện nay, việc thực hiện các quy định của Hiến pháp và pháp luật liên quan đến Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và chính quyền địa phương vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện nhằm để đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Ủy ban Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 ban hành Kế hoạch tổ chức lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Việc lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết nhằm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, huy động trí tuệ, tâm huyết và tạo sự đồng thuận, thống nhất cao của toàn dân trong việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013, bảo đảm Hiến pháp phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của Nhân dân.
Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013 là một sự kiện chính trị và pháp lý trọng đại, dù ở phạm vi, quy mô nào cũng là một công việc rất hệ trọng, thiêng liêng. Do vậy, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp phải được tiến hành thận trọng, khách quan, dân chủ, khoa học, hiệu quả với sự tham gia tích cực, đồng bộ của các cơ quan, tổ chức, các chuyên gia, nhà khoa học và toàn thể Nhân dân theo đúng chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính  – bổ sung nhiều quy định mới

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính – bổ sung nhiều quy định mới

Trên cơ sở phát biểu đề dẫn của đồng chí Trương Thế Côn, Tổng Biên tập Tạp chí Dân chủ và pháp luật, phát biểu của đồng chí Hồ Quang Huy, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính về sự cần thiết, quá trình soạn thảo và định hướng xây dựng Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm pháp luật hành chính, Hội thảo khoa học “Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi pham hành chính” đã tiếp nhận được gần 20 ý kiến phát biểu và hơn 10 bài nghiên cứu chuyên sâu. Các bài viết và ý kiến phát biểu tại Hội thảo sẽ được Tạp chí Dân chủ và Pháp luật và Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính tổng hợp, xem xét để gửi tới cá nhân, cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong quá trình xây dựng, quyết định chính sách.
Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp.
Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp  nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV khai mạc sáng ngày 05/5/2025. Đây là Kỳ họp có nhiều nội dung quan trọng, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII - Hội nghị lịch sử, bàn về những quyết sách lịch sử trong giai đoạn Cách mạng mới của nước ta, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.

Bàn về các xu hướng phát triển của pháp luật Việt Nam trong kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Các xu hướng phát triển pháp luật là biểu hiện các quy luật phát triển pháp luật có ý nghĩa phương pháp luận, lý luận và thực tiễn quan trọng, gắn liền với việc xây dựng chiến lược phát triển pháp luật ở nước ta; các xu hướng phát triển pháp luật chịu sự tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau. Bài viết nghiên cứu, tìm hiểu các xu hướng phát triển pháp luật Việt Nam trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm