Thứ sáu 14/11/2025 01:01
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Một số ý kiến hoàn thiện chế định về người thực hiện trợ giúp pháp lý ở Việt Nam hiện nay

Theo Điều 20 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 thì người thực hiện trợ giúp pháp lý là trợ giúp viên pháp lý và người tham gia trợ giúp pháp lý. Quy định này đã đánh dấu một bước phát triển mới của pháp luật về người thực hiện trợ giúp pháp lý. Tiếp theo đó, các văn bản dưới luật đã quy định khá đồng bộ về điều kiện, tiêu chuẩn, hình thức tham gia trợ giúp pháp lý cũng như quy định về quyền, nghĩa vụ, hoạt động và các vấn đề liên quan về người thực hiện trợ giúp pháp lý.

Tuy nhiên, qua một thời gian triển khai trên thực tiễn, bên cạnh những kết quả đạt được, chế định về người thực hiện trợ giúp pháp lý đã bộc lộ những hạn chế nhất định. Bài viết đã chỉ ra những điểm còn hạn chế về chế định người thực hiện trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật hiện hành, đồng thời đưa ra những đóng góp để khắc phục những hạn chế nhằm hoàn thiện chế định về người thực hiện trợ giúp pháp lý ở Việt Nam hiện nay.

Chế định về người thực hiện trợ giúp pháp lý (TGPL) đang được hoàn thiện ngày càng rõ nét, số lượng các văn bản quy phạm pháp luật có quy định liên quan đến người thực hiện TGPL được ban hành nhiều hơn, thể chế hóa những chủ trương, chính sách của Đảng về công tác TGPL. Lần đầu tiên, các quy định của pháp luật về người thực hiện TGPL được ghi nhận ở văn bản có giá trị pháp lý cao ở cấp độ luật mà các giai đoạn trước chưa đạt được. Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 đã đánh dấu một bước phát triển mới của chế định về người thực hiện TGPL. Trong đó, Luật dành toàn bộ Chương IV quy định về người thực hiện TGPL. Bên cạnh đó, Luật Luật sư được ban hành năm 2006 và lần đầu tiên, nội dung về nghĩa vụ thực hiện TGPL miễn phí của luật sư được quy định ở cấp độ luật và thay thế cho các quy định trong Pháp lệnh Luật sư năm 2001. Việc Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 ghi nhận trợ giúp viên pháp lý là người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự; Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 ghi nhận trợ giúp viên pháp lý là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; Luật Tố tụng hành chính năm 2015 ghi nhận trợ giúp viên pháp lý tham gia tố tụng với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đã tạo ra sự thống nhất về hoạt động TGPL trong tố tụng hình sự, tố tụng dân sự và tố tụng hành chính. Có thể nói, đây là một bước tiến trong quá trình hoàn thiện quy định về tư cách tham gia tố tụng của người thực hiện TGPL ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.

Các văn bản dưới luật đã quy định khá đồng bộ về điều kiện, tiêu chuẩn, hình thức tham gia TGPL, quyền, nghĩa vụ, hoạt động của người thực hiện TGPL và các vấn đề khác có liên quan về người thực hiện TGPL. Về cơ bản, các quy định về người thực hiện TGPL đã bao quát được hầu hết các vấn đề về người thực hiện TGPL cần được pháp luật điều chỉnh. Tuy nhiên, chế định về người thực hiện TGPL còn bộc lộ một số điểm hạn chế sau đây:

Một là, các quy định của pháp luật về người thực hiện TGPL còn thiếu tính thống nhất, đồng bộ, thể hiện trong nội dung của các văn bản quy phạm pháp luật có quy định về người thực hiện TGPL, cụ thể là:

- Về bản chất công việc của trợ giúp viên pháp lý và luật sư là giống nhau khi tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng, tư vấn pháp luật hay hình thức cung cấp dịch vụ pháp lý khác cho người dân. Tuy nhiên, quy định của pháp luật hiện hành còn có sự chênh lệch về tiêu chuẩn, điều kiện giữa người thực hiện TGPL là trợ giúp viên pháp lý và luật sư (chẳng hạn, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 chưa quy định về chế độ tập sự đối với trợ giúp viên pháp lý, trong khi đó, Điều 10 Luật Luật sư năm 2006 quy định thời gian tập sự hành nghề luật sư và đã được đào tạo nghề luật sư là một trong những tiêu chuẩn của luật sư; trợ giúp viên pháp lý được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cấp thẻ trợ giúp viên pháp lý, còn luật sư được Bộ trưởng Bộ Tư pháp cấp chứng chỉ hành nghề luật sư…).

- Theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006, thì tư vấn viên pháp luật và cộng tác viên TGPL khác (cộng tác viên không phải là luật sư) chỉ tham gia TGPL bằng hình thức tư vấn pháp luật. Tuy vậy, tiêu chuẩn, điều kiện của họ chưa được pháp luật quy định thống nhất. Theo quy định tại khoản 1 Điều 19 Nghị định số 77/2008/NĐ-CP ngày 16/7/2008 của Chính phủ về tư vấn pháp luật, thì “tư vấn viên pháp luật là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, có đủ tiêu chuẩn sau đây: a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có phẩm chất đạo đức tốt, không phải là người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã bị kết án mà chưa được xóa án tích; b) Có bằng cử nhân luật; c) Có thời gian công tác pháp luật từ ba năm trở lên”, còn đối với cộng tác viên TGPL khác (cộng tác viên không phải là luật sư), như “người thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số và miền núi” chỉ cần “có bằng trung cấp luật hoặc có thời gian làm công tác pháp luật từ ba năm trở lên hoặc có kiến thức pháp luật và có uy tín trong cộng đồng” được Giám đốc Sở Tư pháp xem xét, công nhận và cấp thẻ cộng tác viên TGPL (điểm b khoản 1 Điều 22 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006).

- Theo quy định của pháp luật về TGPL hiện hành, mặc dù đội ngũ chuyên viên pháp lý của Trung tâm TGPL nhà nước đều có trình độ chuyên môn từ cử nhân luật trở lên, nhưng không được thực hiện tư vấn pháp luật cũng như các hình thức TGPL khác cho người được TGPL. Trong khi đó, cộng tác viên không phải là luật sư, thậm chí có trình độ trung cấp luật nêu trên cũng được thực hiện tư vấn pháp luật cho người được TGPL. Như vậy, việc chuyên viên pháp lý có trình độ từ cử nhân luật trở lên không được thực hiện TGPL đã và đang gây lãng phí một nguồn lực không nhỏ tham gia thực hiện TGPL cho người dân.

Sự thiếu thống nhất, đồng bộ của pháp luật về người thực hiện TGPL còn thể hiện ở việc chưa thống nhất giữa một số quy định của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 và Luật Luật sư năm 2006, như: Nghĩa vụ thực hiện TGPL của luật sư được quy định trong Luật Luật sư còn hoạt động TGPL của tổ chức thực hiện TGPL và tổ chức tham gia TGPL được thực hiện theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý; chưa quy định rõ ràng, tách bạch giữa hoạt động TGPL theo nghĩa vụ và hoạt động TGPL tự nguyện của luật sư.

Bên cạnh đó, các văn quy phạm pháp luật dưới luật chưa hướng dẫn cụ thể việc thực hiện TGPL theo nghĩa vụ, tự nguyện của luật sư và hoạt động TGPL của tư vấn viên pháp luật.

Hai là, mặc dù Nghị định số 80/2015/NĐ-CP ngày 17/9/2015 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 14/2013/NĐ-CP ngày 05/02/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý (Nghị định số 80/2015/NĐ-CP) đã quy định mức bồi dưỡng mới cho luật sư thực hiện TGPL bằng hình thức tham gia tố tụng theo yêu cầu của Nhà nước1, tuy nhiên mức bồi dưỡng này vẫn còn thấp so với thực tế, đồng thời chưa có văn bản hướng dẫn kịp thời về cách tính buổi, tính thời gian để làm căn cứ khoán chi hoặc chi trả mức bồi dưỡng cho luật sư theo buổi hoặc theo thời gian làm việc, nên nhiều địa phương còn lúng túng trong việc thực hiện mức chi mới này cho người thực hiện TGPL.

Ba là, hiện nay, chưa có cơ chế thu hút các tổ chức, cá nhân tham gia TGPL, cũng như chưa có cơ chế quản lý, kiểm soát hoạt động nghĩa vụ TGPL của luật sư theo Luật Luật sư, chưa có chế tài nếu luật sư không thực hiện TGPL, do vậy, hàng năm chưa huy động được đông đảo đội ngũ luật sư cung cấp dịch vụ TGPL cho người được TGPL.

Để khắc phục những điểm hạn chế nêu trên, cần sửa đổi, bổ sung các quy định về người thực hiện TGPL của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 và các văn bản pháp luật có liên quan, cụ thể là:

Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung quy định về trợ giúp viên pháp lý, chuyên viên pháp lý. Trước mắt, để bảo đảm người dân được hưởng dịch vụ pháp lý công bằng và có chất lượng, cần sửa đổi, bổ sung quy định về tiêu chuẩn của trợ giúp viên pháp lý cho tương đồng với tiêu chuẩn của luật sư hành nghề tự do như hiện nay. Đồng thời, để tạo thuận lợi cho trợ giúp viên pháp lý thực hiện TGPL, thì việc quy định Bộ trưởng Bộ Tư pháp có thẩm quyền bổ nhiệm trợ giúp viên pháp lý là cần thiết. Bên cạnh đó, bổ sung quy định chuyên viên pháp lý được thực hiện TGPL bằng hình thức tư vấn pháp luật sẽ góp phần bổ sung nguồn lực cho đội ngũ người thực hiện TGPL đáp ứng nhu cầu TGPL ngày càng cao của nhân dân.

Thứ hai, chuyển đổi chức danh trợ giúp viên pháp lý thành luật sư công. Về lâu dài, để bảo đảm cung cấp dịch vụ pháp lý một cách chuyên nghiệp như luật sư hành nghề tự do, người dân dễ nhận diện người thực hiện TGPL, xóa đi mặc cảm trợ giúp viên pháp lý không chuyên nghiệp và thu hút được đội ngũ luật sư tham gia thực hiện TGPL, đề nghị sửa đổi, bổ sung Điều 20 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 về người thực hiện TGPL theo hướng xây dựng đội ngũ luật sư công thay thế cho trợ giúp viên pháp lý hiện nay, đồng thời vẫn bổ sung chuyên viên pháp lý làm việc ở Trung tâm TGPL nhà nước được thực hiện TGPL bằng hình thức tư vấn pháp luật như đã phân tích nêu trên. Theo hướng này, tại Trung tâm TGPL nhà nước có luật sư công và chuyên viên pháp lý là người thực hiện TGPL, được cung cấp dịch vụ pháp lý. Luật sư công là luật sư được đào tạo nghề luật sư, tập sự hành nghề luật sư như đối với luật sư hành nghề tự do hiện nay, nhưng họ là viên chức làm việc tại các Trung tâm TGPL nhà nước và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Luật sư công được cung cấp dịch vụ pháp lý thông qua tất cả các hình thức TGPL, còn chuyên viên TGPL chỉ được thực hiện TGPL bằng hình thức tư vấn pháp luật. Nguồn của đội ngũ luật sư công là trợ giúp viên pháp lý đã thực hiện TGPL, có nhiều kinh nghiệm chuyển sang (cần có quy định chuyển đổi trợ giúp viên pháp lý thành luật sư công, theo hướng sửa đổi, bổ sung Luật Luật sư, trong đó quy định trợ giúp viên pháp lý là một trong những trường hợp được miễn đào tạo nghề luật sư); luật sư đang hành nghề tự do có nguyện vọng làm việc tại Trung tâm TGPL, được Trung tâm TGPL tạo điều kiện ký hợp đồng lao động và được trả lương từ ngân sách nhà nước và đội ngũ chuyên viên TGPL đủ tiêu chuẩn được đào tạo nghề luật sư, tập sự tại các tổ chức hành nghề luật sư hoặc tại Trung tâm TGPL và được cấp chứng chỉ hành nghề.

Thứ ba, về tham gia thực hiện TGPL của luật sư và tư vấn viên pháp luật cần quy định rõ ràng, cụ thể và minh bạch, cởi mở hơn, đồng bộ với pháp luật về luật sư, với pháp luật về tư vấn pháp luật theo hướng tạo khung pháp lý để họ tham gia thực hiện TGPL được nhiều nhất, huy động được nguồn lực xã hội tham gia TGPL bằng nguồn lực của chính họ (kinh phí, thời gian, công sức, chất xám...).

Thứ tư, sửa đổi điều kiện, tiêu chuẩn cộng tác viên TGPL. Theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý hiện hành, điều kiện, tiêu chuẩn của cộng tác viên chưa phù hợp với thực tiễn, nhiều trường hợp chưa bảo đảm chất lượng dịch vụ TGPL cho người được TGPL. Theo khoản 1 Điều 22 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006, thì cộng tác viên bao gồm 05 nhóm người: Người có bằng cử nhân luật; người có bằng đại học khác làm việc trong các ngành, nghề có liên quan đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; người thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số và miền núi có bằng trung cấp luật hoặc có thời gian làm công tác pháp luật từ ba năm trở lên hoặc có kiến thức pháp luật và có uy tín trong cộng đồng; luật sư; tư vấn viên pháp luật.

Để bảo đảm tính chuyên nghiệp của đội ngũ người thực hiện TGPL, nâng cao chất lượng dịch vụ TGPL, thì việc quy định nâng cao mức điều kiện, tiêu chuẩn cộng tác viên TGPL là rất cần thiết. Vì vậy, tác giả đề nghị sửa đổi quy định về cộng tác viên TGPL theo hướng cộng tác viên chỉ bao gồm 03 nhóm người là: Luật sư; người có bằng cử nhân luật trở lên; người có bằng đại học khác trở lên và am hiểu pháp luật. Đối với cộng tác viên là luật sư thì được thực hiện TGPL bằng tất cả các hình thức tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng, tư vấn và các hình thức khác. Còn đối với cộng tác viên khác là người có bằng cử nhân luật hoặc có bằng đại học khác và am hiểu pháp luật, thì chỉ được tham gia TGPL bằng hình thức tư vấn pháp luật.

Thứ năm, sửa đổi pháp luật có liên quan đến chế định về người thực hiện TGPL bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật.

- Trước mắt, sửa đổi, bổ sung Luật Luật sư theo hướng quy định trợ giúp viên pháp lý là một trong những trường hợp được miễn đào tạo nghề luật sư để có lộ trình chuyển đổi chức danh trợ giúp viên pháp lý thành luật sư công cho phù hợp.

- Về lâu dài, đề nghị sửa đổi, bổ sung Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 theo hướng điều chỉnh đồng bộ, toàn diện các hoạt động TGPL của người thực hiện TGPL hiện nay đang được điều chỉnh bởi các văn bản pháp luật khác nhau, cụ thể như sau: Điều chỉnh hoạt động TGPL của luật sư công làm việc trong Trung tâm TGPL nhà nước, luật sư là cộng tác viên TGPL, luật sư tham gia TGPL làm việc tại các tổ chức hành nghề luật sư, Trung tâm Tư vấn pháp luật đăng ký tham gia TGPL, hoạt động TGPL theo nghĩa vụ của luật sư (trong đó, bổ sung chế tài đối với trường hợp luật sư không thực hiện TGPL); bổ sung quy định điều chỉnh việc tham gia TGPL của luật sư hành nghề với tư cách cá nhân và quy định điều chỉnh việc tự nguyện thực hiện TGPL của các luật sư không đăng ký tham gia TGPL. Bên cạnh đó, sửa đổi Luật Luật sư theo hướng cho phép luật sư được lựa chọn tập sự hành nghề luật sư tại các Trung tâm TGPL nhà nước hoặc tổ chức hành nghề luật sư; quy định trợ giúp viên pháp lý là một trong những trường hợp được miễn đào tạo nghề luật sư để tạo cơ sở pháp lý cho việc chuyển đổi trợ giúp viên pháp lý hiện nay thành luật sư công. Quy định luật sư được lựa chọn hình thức hành nghề trong Trung tâm TGPL nhà nước với tư cách là viên chức nhà nước, đồng thời là luật sư công. Quy định rõ tư cách của luật sư công trong Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính theo hướng quy định thống nhất quyền và nghĩa vụ của luật sư hành nghề tự do và luật sư công khi tham gia tố tụng.

Thứ sáu, xã hội hóa hoạt động TGPL, huy động mọi nguồn lực xã hội tham gia thực hiện TGPL, đáp ứng nhu cầu TGPL của người được TGPL. Trước mắt, cần xây dựng văn bản hướng dẫn cụ thể thực hiện chính sách xã hội hóa hoạt động TGPL theo Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006, theo đó, có chính sách như miễn, giảm thuế cho các tổ chức hành nghề luật sư, các Trung tâm Tư vấn pháp luật tham gia thực hiện TGPL và hỗ trợ cơ sở vật chất, kinh phí thực hiện vụ việc TGPL thông qua cơ chế hợp đồng đặt hàng với Nhà nước để cung cấp dịch vụ TGPL. Đồng thời, xác định rõ cơ chế Nhà nước hỗ trợ cơ sở vật chất và kinh phí hoạt động, tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân tham gia thực hiện TGPL.

Để khuyến khích các tổ chức hành nghề luật sư đăng ký tham gia TGPL và các luật sư tham gia thực hiện TGPL, Liên đoàn Luật sư Việt Nam cần sớm sửa đổi Quyết định số 93/QĐ-BTV ngày 09/10/2014 của Ban Thường vụ Liên đoàn Luật sư Việt Nam hướng dẫn về nghĩa vụ thực hiện TGPL của luật sư theo hướng mỗi năm luật sư tham gia tố tụng ít nhất 01 vụ/năm và thực hiện tư vấn pháp luật 24-36 giờ/01 năm (nghĩa vụ thực hiện TGPL của luật sư theo quy định hiện nay là 08 giờ/năm); đồng thời rà soát các văn bản có liên quan, bổ sung quy định về các biện pháp xử lý đối với trường hợp luật sư không thực hiện nghĩa vụ TGPL theo quy định.

Ngoài ra, để khuyến khích, huy động các Trung tâm Tư vấn pháp luật tham gia TGPL, tác giả kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Thông tư số 01/2010/TT-BTP ngày 09/02/2010 của Bộ Tư pháp quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 77/2008/NĐ-CP ngày 16/7/2008 của Chính phủ về tư vấn pháp luật, hướng dẫn cụ thể cơ chế bảo đảm tham gia thực hiện TGPL của các Trung tâm Tư vấn pháp luật. Đồng thời, có cơ chế thu hút, động viên hội viên là luật sư, chuyên gia pháp lý làm cộng tác viên tư vấn pháp luật với tinh thần trách nhiệm, tích cực tham gia tư vấn pháp luật và TGPL. Để khuyến khích luật sư, tư vấn viên pháp luật, cộng tác viên TGPL tích cực tham gia thực hiện TGPL và thực hiện vụ việc TGPL bảo đảm chất lượng, cần sửa đổi một số văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 như: Nghị định số 80/2015/NĐ-CP, Nghị định số 14/2013/NĐ-CP..., trong đó sửa đổi các quy định về chế độ bồi dưỡng vụ việc TGPL cho cộng tác viên TGPL theo mức cao hơn so với mức quy định hiện hành.

Bên cạnh đó, để tạo điều kiện thuận lợi cho người thực hiện TGPL thực hiện các thủ tục thanh toán vụ việc TGPL, cần sớm sửa đổi Thông tư số 18/2013/TT-BTP ngày 20/11/2013 của Bộ Tư pháp hướng dẫn cách tính thời gian thực hiện và thủ tục thanh toán chi phí thực hiện vụ việc TGPL theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính; quy định cụ thể về tính chất, nội dung vụ việc, cách tính thời gian để làm căn cứ khoán chi hoặc chi trả mức bồi dưỡng cho luật sư, cộng tác viên TGPL theo thời gian.

Trần Văn Tùy
Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật, Bộ Tư pháp

Tài liệu tham khảo:

1. Khoản 4 Điều 1 Nghị định số 80/2015/NĐ-CP quy định: “Trong trường hợp thực hiện trợ giúp pháp lý bằng hình thức tham gia tố tụng thì mức bồi dưỡng được trả cho luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý theo yêu cầu của Nhà nước là 500.000 đồng/01 buổi làm việc hoặc khoán chi theo vụ việc với mức tối thiểu bằng 03 tháng lương cơ sở và mức tối đa là 10 tháng lương cơ sở (tùy tính chất, nội dung vụ việc).

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết tập trung nghiên cứu một số học thuyết và phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật, chỉ ra những bất cập tồn tại trong quy định pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam chưa phù hợp với các học thuyết này. Từ đó, nghiên cứu đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng trong thời gian tới.
Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Tóm tắt: Cải cách thủ tục hành chính là yếu tố quan trọng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính, thúc đẩy cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đặc biệt là tạo động lực cho đổi mới sáng tạo. Nghiên cứu này phân tích sự cần thiết của cải cách thủ tục hành chính và thực trạng cải cách thủ tục hành chính ở Việt Nam trong việc khơi thông động lực đổi mới sáng tạo, từ đó, đề xuất giải pháp cải cách.
Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích quá trình phát triển tư tưởng về mối quan hệ giữa luật pháp và kinh tế học, tập trung vào trường phái kinh tế học pháp luật với phương pháp phân tích chi phí - lợi ích làm nổi bật vai trò quan trọng của việc cân nhắc các tác động hành vi cùng hiệu quả phân bổ nguồn lực trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Trên cơ sở đó, đề xuất áp dụng phương pháp kinh tế học pháp luật vào quy trình lập pháp tại Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả, tính minh bạch, sự công bằng xã hội và góp phần thúc đẩy cải cách pháp luật bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chuyển đổi số.
Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Tóm tắt: Tranh chấp lao động cá nhân là tranh chấp phổ biến nhất trong quan hệ lao động và ngày càng diễn biến phức tạp, cùng với đó, nhu cầu về cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả, linh hoạt và bảo đảm quyền lợi cho các bên cũng ngày càng tăng trong lĩnh vực lao động. Trọng tài lao động với tính chất độc lập và được thiết kế theo cơ chế ba bên, có tiềm năng trở thành phương thức giải quyết tranh chấp lao động cá nhân hiệu quả. Bài viết phân tích thực trạng pháp luật hiện hành về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích các dấu hiệu nhận diện đặc trưng của tài sản số, những khó khăn, bất cập khi thiếu khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số, kinh nghiệm của Hoa Kỳ và giá trị tham khảo cho Việt Nam. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng khung pháp lý vững chắc giúp Việt Nam có cơ hội phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực công nghệ, bảo vệ quyền lợi của người sở hữu tài sản số, tận dụng tối đa tiềm năng từ tài sản số và tiếp tục vững bước trên con đường phát triển kinh tế số.
Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Tóm tắt: Bài viết phân tích, làm rõ khái niệm người có ảnh hưởng, tình hình thực tiễn về mô hình quảng cáo thông qua người có ảnh hưởng và các hành vi quảng cáo gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng. Trên cơ sở đó, nghiên cứu phân tích một số hạn chế, bất cập trong quy định pháp luật và đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Tóm tắt: Trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên mới với những yêu cầu đặt ra về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như yêu cầu tháo gỡ những “điểm nghẽn”, “nút thắt” có nguyên nhân từ quy định của pháp luật hiện nay, việc hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án dân sự nói riêng là cấp thiết, đặc biệt, dự án Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) dự kiến được Quốc hội khóa XV thông qua tại kỳ họp thứ 10 vào tháng 10/2025. Trước bối cảnh đó, với vai trò là trụ cột, là nguồn lực chủ yếu để xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới, đồng thời là đội ngũ tiên phong tham gia các lĩnh vực mới, thanh niên ngành thi hành án dân sự cần tiếp tục phát huy vai trò và trách nhiệm trong việc tham gia vào công tác hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự.
Hoạt động giám sát của Quốc hội trong thực hiện điều ước quốc tế - Một số tồn tại, hạn chế và kiến nghị, đề xuất hoàn thiện

Hoạt động giám sát của Quốc hội trong thực hiện điều ước quốc tế - Một số tồn tại, hạn chế và kiến nghị, đề xuất hoàn thiện

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích, đánh giá một số tồn tại, hạn chế trong hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam đối với việc thực hiện điều ước quốc tế, từ đó, đưa ra một số kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, bảo đảm công tác giám sát thực hiện điều ước quốc tế ngày càng đi vào thực chất, hiệu quả.
Khả năng thỏa thuận về thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài - Kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Khả năng thỏa thuận về thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài - Kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Tóm tắt: Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại đề cao quyền tự quyết của các bên, vì thủ tục này chỉ được tiến hành khi các bên có thỏa thuận trọng tài. Cơ chế tự do thỏa thuận đặt ra vấn đề, liệu các bên có được thỏa thuận về thời hiệu khởi kiện để đưa tranh chấp ra giải quyết tại trọng tài hay không? Bài viết phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về khả năng thỏa thuận thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại, so sánh với pháp luật của một số quốc gia về vấn đề này; từ đó, đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật.
Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thế chấp tài sản số từ kinh nghiệm pháp luật quốc tế và một số quốc gia

Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thế chấp tài sản số từ kinh nghiệm pháp luật quốc tế và một số quốc gia

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích một số nội dung cơ bản về thế chấp bằng tài sản số trong pháp luật quốc tế và của một số quốc gia; từ đó, kiến nghị một số chính sách để Việt Nam có thể nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hành lang pháp lý phù hợp, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, giúp kinh tế tư nhân phát triển mạnh và bền vững hơn.
Xây dựng đội ngũ công chức, viên chức tư pháp địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng đội ngũ công chức, viên chức tư pháp địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích một số vấn đề lý luận như khái niệm, quan điểm và yêu cầu đặt ra đối với đội ngũ công chức, viên chức tư pháp địa phương trong bối cảnh hiện nay. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác xây dựng đội ngũ công chức, viên chức tư pháp địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Quy định về quyền bề mặt theo pháp luật dân sự Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện

Quy định về quyền bề mặt theo pháp luật dân sự Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về quyền bề mặt qua các thời kỳ; chỉ ra một số bất cập trong quy định pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về quyền bề mặt ở Việt Nam thời gian qua; từ đó, đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Một số định hướng tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Một số định hướng tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Trước yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, hoàn thiện pháp luật hình sự nói riêng là yêu cầu tất yếu. Bài viết phân tích chính sách, pháp luật hình sự hiện hành và một số yêu cầu đặt ra trong bối cảnh hiện nay, từ đó, đề xuất một số định hướng hoàn thiện pháp luật hình sự đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong tố tụng hình sự Việt Nam

Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong tố tụng hình sự Việt Nam

Xuất phát từ luận điểm quá trình tố tụng hình sự là biểu hiện của việc thực hiện quyền tư pháp trong thực tiễn, bài viết đánh giá thực trạng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về vấn đề này, từ đó, đề xuất một số kiến nghị nhằm tiếp tục kiểm soát có hiệu quả quyền tư pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã chủ nghĩa ở Việt Nam thời gian tới.
Hoàn thiện khung pháp lý về trọng tài thương mại trực tuyến trong điều kiện phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam

Hoàn thiện khung pháp lý về trọng tài thương mại trực tuyến trong điều kiện phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam

Trọng tài thương mại trực tuyến có thể được coi là sự sáng tạo và nâng cấp so với trọng tài thương mại truyền thống, đặc biệt, trong thời đại công nghệ số và phát triển nền kinh tế số, có rất nhiều hợp đồng thương mại được ký kết thông qua chữ ký số, hợp đồng thương mại điện tử… Trọng tài thương mại trực tuyến là phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thông qua ứng dụng công nghệ thông tin và phương thức điện tử. Bài viết nghiên cứu, làm rõ về trọng tài thương mại trực tuyến; nhận diện những thách thức khi áp dụng trọng tài trực tuyến để giải quyết tranh chấp thương mại; từ đó, kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện khung pháp lý về trọng tài thương mại trực tuyến trong điều kiện phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam.

Theo dõi chúng tôi trên:

he-thong-benh-vien-quoc-te-vinmec
nha-hang-thai-village
delta-group
khach-san-ladalat
trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
truong-dai-hoc-y-duoc-dai-hoc-quoc-gia-ha-noi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm
cong-ty-co-phan-loc-hoa-dau-binh-son
sofitel-legend-metropole-ha-noi