Thứ bảy 21/06/2025 15:37
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Nhận diện chủ thể thực hiện hành vi tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước

Tóm tắt: Bài viết đưa ra một số phân tích để thống nhất trong nhận thức, thực hiện việc nhận diện chủ thể thực hiện hành vi tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài Nhà nước theo Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018.

Tóm tắt: Bài viết đưa ra một số phân tích để thống nhất trong nhận thức, thực hiện việc nhận diện chủ thể thực hiện hành vi tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài Nhà nước theo Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018.

Abstract: The paper provides a number of analyses to unify the awareness and to identify subjects of corruption acts in enterprises and organizations in the non-state sector according to the Anti-Corruption Law of 2018.

Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định người có chức vụ, quyền hạn trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước cũng có thể là chủ thể của hành vi tham nhũng[1]. Đây là lần đầu tiên Việt Nam mở rộng áp dụng chủ thể có hành vi tham nhũng ra ngoài khu vực nhà nước. Do đó, việc nhận diện chính xác chủ thể có hành vi tham nhũng thuộc khu vực ngoài nhà nước là rất cần thiết và quan trọng nhằm triển khai thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 có hiệu quả.

1. Khái quát chung về doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước

Tổ chức là phối hợp, liên kết hoạt động của nhiều người để thực hiện mục tiêu đề ra. Doanh nghiệp là tổ chức[2]. Ở đâu có tổ chức thì ở đó cần có sự quản lý. Một trong những chủ thể quản lý là con người (chủ thể còn lại là tổ chức của con người). Quyền hạn là yếu tố giúp cho con người quản lý hiệu quả nhưng cũng là một trong những công cụ để chủ thể dựa vào đó để có thể thực hiện hành vi tham nhũng. Bởi vì, tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi[3].

Nền kinh tế Việt Nam hiện nay là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó, có kinh tế tư nhân. Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ trương khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển. Kinh tế tư nhân ở nước ta đã không ngừng phát triển, đóng góp ngày càng lớn hơn vào sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển tích cực đó cũng tiềm ẩn những dấu hiệu tiêu cực. Một trong những biểu hiện tiêu cực mới xuất hiện đó là tham nhũng. Tham nhũng đã phần nào gây hậu quả xấu về kinh tế - xã hội, làm suy giảm lòng tin của nhân dân. Điều này đặt ra yêu cầu, Nhà nước cần kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật, trong đó có tham nhũng, bảo đảm không làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và tạo gánh nặng tâm lý đối với người dân và doanh nghiệp.

Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 lần đầu tiên mở rộng quy định xử lý đối với một số tội phạm về tham nhũng trong mọi tổ chức (Mục 1 Chương XXIII). Một trong những tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật Việt Nam là tính thống nhất và đồng bộ. Do đó, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 cũng cần phải đáp ứng tiêu chí này để tránh sự mâu thuẫn của các ngành luật trong hệ thống pháp luật.

Từ ngày 18/9/2009, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Công ước Liên Hợp Quốc về chống tham nhũng, việc mở rộng chủ thể thực hiện hành vi tham nhũng ra khu vực ngoài nhà nước, đó là thực hiện cam kết quốc tế của Việt Nam.

Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 không định nghĩa doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước, mà chỉ định nghĩa cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước. Do đó, để nhận diện doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước thì chúng ta phải dựa vào định nghĩa cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước: “Cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước bao gồm cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước và tổ chức, đơn vị khác do Nhà nước thành lập, đầu tư cơ sở vật chất, cấp phát toàn bộ hoặc một phần kinh phí hoạt động, do Nhà nước trực tiếp quản lý hoặc tham gia quản lý nhằm phục vụ nhu cầu phát triển chung, thiết yếu của Nhà nước và xã hội”[4]. Theo đó, có thể hiểu, doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước là doanh nghiệp, tổ chức không thuộc trường hợp cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước. Trước hết, tác giả cho rằng, đây là quy định phù hợp và khả thi của Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 về việc xác định doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước. Bởi vì, với việc chúng ta khuyến khích thành lập doanh nghiệp khu vực ngoài nhà nước, quyền tự do lập hội, được tham gia bất kỳ tổ chức nào (không trái với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam) sẽ dẫn đến số lượng doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước là rất lớn. Chúng ta sẽ không thể nào liệt kê hết, đầy đủ được. Ngược lại, hệ thống chính trị của nước ta thường xuyên, liên tục được đổi mới, sắp xếp, tổ chức theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nên dẫn đến số lượng tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước dần ít đi, việc nhận diện sẽ rất thuận lợi và khả thi.

Để nhận diện cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước được các nhà làm luật căn cứ vào các tiêu chí sau: Do Nhà nước thành lập, đầu tư cơ sở vật chất, cấp phát toàn bộ hoặc một phần kinh phí hoạt động; do Nhà nước trực tiếp quản lý hoặc tham gia quản lý nhằm phục vụ nhu cầu phát triển chung, thiết yếu của Nhà nước và xã hội. Như vậy, cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước do Nhà nước thành lập sẽ kéo theo việc Nhà nước đầu tư cơ sở vật chất, cấp kinh phí, cử người quản lý và hơn hết đó là được thực hiện chức năng nhà nước. Do đó, đây là tiêu chí rõ ràng, cụ thể để chúng ta nhận diện được doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước.

Hiện nay, chúng ta đang có chủ trương xã hội hóa lĩnh vực dịch vụ công, thu hút các thành phần kinh tế tham gia vào lĩnh vực dịch vụ này[5]. Có thể khẳng định, tất cả cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực nhà nước hoạt động đều nhằm phục vụ nhu cầu phát triển chung, thiết yếu của Nhà nước và xã hội nhưng không phải tất cả tổ chức hoạt động nhằm phục vụ nhu cầu phát triển chung, thiết yếu của Nhà nước và xã hội thì đều thuộc khu vực nhà nước. Chẳng hạn, hoạt động của các tổ chức phi Chính phủ rất đa dạng trong các lĩnh vực dịch vụ, văn hóa, khoa học kỹ thuật, nhân đạo..., đó là các hoạt động phục vụ lợi ích công cộng vì sự phát triển lành mạnh, công bằng, bình đẳng, tiến bộ xã hội[6]. Như vậy, nếu chúng ta sử dụng tiêu chí phục vụ nhu cầu phát triển chung, thiết yếu của Nhà nước và xã hội để nhận diện đó là cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc khu vực nhà nước thì chắc chắn sẽ không thuyết phục trong thực tế.

Việt Nam đang trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, “đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”[7]. Đi đến tận cùng vấn đề nhận diện tổ chức được Nhà nước đầu tư cơ sở vật chất, cấp phát toàn bộ hoặc một phần kinh phí hoạt động thì thuộc khu vực nhà nước, e rằng không thuyết phục những chủ thể “khó tính” nhất. Bên cạnh đó, đối với doanh nghiệp nhà nước, Việt Nam đang có chủ trương tách chức năng sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước và chức năng quản lý nhà nước[8]. Từ phân tích trên, tác giả cho rằng, các cơ quan, đơn vị, tổ chức khu vực nhà nước phải đáp ứng tiêu chí có sử dụng quyền lực nhà nước hoặc có tham gia quản lý nhà nước hoặc có tài sản, vốn của Nhà nước. Ngược lại, doanh nghiệp, tổ chức không được sử dụng quyền lực nhà nước, không có sự tham gia quản lý nhà nước hoặc Nhà nước không có tài sản, vốn trong đó thì thuộc khu vực ngoài Nhà nước.

2. Nhận diện chủ thể thực hiện hành vi tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước

Chủ thể thực hiện hành vi tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước bao gồm: Người giữ chức danh, chức vụ quản lý trong doanh nghiệp, tổ chức; những người khác được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ và có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó[9]. Trong đó, người giữ chức danh, chức vụ quản lý trong doanh nghiệp gồm: “Người quản lý doanh nghiệp là người quản lý công ty và người quản lý doanh nghiệp tư nhân, bao gồm chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh, Chủ tịch Hội đồng thành viên, thành viên Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Chủ tịch Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và cá nhân giữ chức danh quản lý khác có thẩm quyền nhân danh công ty ký kết giao dịch của công ty theo quy định tại Điều lệ công ty”[10]. Người giữ chức danh, chức vụ quản lý trong tổ chức là người được bổ nhiệm hoặc ký hợp đồng lao động để đảm nhận một chức danh quản lý nào đó. Bên cạnh đó, đối với những vị trí công việc mà không phải các chức danh, chức vụ quản lý nhưng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được ủy quyền, được giao hay vì thực hiện đúng nhiệm vụ của bản thân mà lợi dụng quyền hạn để vụ lợi thì có thể trở thành chủ thể thực hiện hành vi tham nhũng. Như vậy, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định người giữ chức danh, chức vụ quản lý và người không giữ bất kỳ chức danh, chức vụ quản lý trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước đều có thể trở thành chủ thể thực hiện hành vi tham nhũng. Họ đều là những người có hành vi lợi dụng quyền hạn của mình vì vụ lợi để tham nhũng. Từ đó, tác giả mạnh dạn đề xuất, trong tương lai, chúng ta có thể định nghĩa tham nhũng theo như định nghĩa của Ngân hàng Thế giới đưa ra: “Tham nhũng là việc lợi dụng quyền hạn vì vụ lợi”. Đó sẽ là định nghĩa mang tính toàn diện, sâu sắc. Đồng thời, cũng khắc phục quan niệm truyền thống trong người dân của chúng ta là người có hành vi tham nhũng chỉ là những người có chức danh, chức vụ quản lý. Từ đó, góp phần nâng cao nhận thức phòng, chống tham nhũng trong xã hội.

Nguyễn Hùng Vừa

Phó Giám đốc Phân hiệu Trường Đại học Luật Hà Nội tỉnh Đắk Lắk

Dương Văn Quý

Phân hiệu Trường Đại học Luật Hà Nội tỉnh Đắk Lắk



[1]. Khoản 2 Điều 2 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018.

[2]. Khoản 7 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014.

[3]. Khoản 1 Điều 3 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018.

[4]. Khoản 9 Điều 3 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018.

[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, 2016, tr.107.

[6]. Lê Thị Phượng, Phát huy vai trò của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nước ta, Tạp chí Cộng sản điện tử, http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/PrintStory.aspx? distribution=51809&print=true, truy cập ngày 15/6/2019.

[7]. Điều 53 Hiến pháp năm 2013.

[8]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, 2016, tr.106.

[9]. Khoản 2 Điều 3 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018.

[10]. Khoản 18 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh khi trao đổi với chúng tôi về 28 nghị định của Chính phủ về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương 02 cấp.
Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm