Thứ hai 09/06/2025 12:17
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Quy định pháp luật về nhượng quyền thương mại - Một số vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung phân tích một số khó khăn, vướng mắc trong quy định về nhượng quyền thương mại tại Việt Nam, từ đó, đưa ra một số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật liên quan đến vấn đề này.

Hiện nay, pháp luật điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại ở Việt Nam đã bước đầu tạo điều kiện, là “bước đệm” cần thiết cho hoạt động nhượng quyền thương mại và đem lại lợi ích cho nền kinh tế. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số vấn đề phát sinh trong quá trình xác lập, thực hiện hợp đồng nhượng quyền thương mại như: Bên nhượng quyền gây ảnh hưởng đến tính độc lập của bên nhận quyền, đôi khi coi bên nhận quyền là bên yếu thế; các bên không trung thực trong cung cấp thông tin, bên nhượng quyền không thực hiện hết các thỏa thuận, giữa bên nhận quyền sơ cấp và bên nhận quyền thứ cấp hay bên nhận có ý đồ chiếm đoạt bí quyết kinh doanh..., đặc biệt là, do một số quy định pháp luật liên quan còn có vướng mắc, bất cập nên trong nhiều trường hợp, các bên chưa thống nhất cách hiểu, áp dụng pháp luật về hoạt động nhượng quyền thương mại.

1. Một số khó khăn, vướng mắc trong quy định pháp luật về nhượng quyền thương mại

Thứ nhất, việc các doanh nghiệp ký kết hợp đồng nhượng quyền thương mại sẽ giúp cho các doanh nghiệp rất nhiều lợi ích trong việc chiếm lĩnh thị trường nhằm tiết kiệm chi phí kinh doanh, thời gian xây dựng thương hiệu và “đứng vững” trên thị trường. Tuy nhiên, hiện nay, Luật Thương mại năm 2005 mới quy định về nhượng quyền thương mại mà chưa đưa ra một định nghĩa chính thức về hợp đồng nhượng quyền thương mại với tư cách là đối tượng của quan hệ nhượng quyền thương mại. Bên cạnh đó, Điều 285 Luật Thương mại năm 2005, với tiêu đề “hợp đồng nhượng quyền thương mại” cũng chỉ quy định về hình thức của hợp đồng nhượng quyền thương mại, theo đó: “Hợp đồng nhượng quyền thương mại phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương”. Vậy, có thể hiểu, hợp đồng nhượng quyền thương mại phải có những đặc điểm chung của hợp đồng được quy định ở Bộ luật Dân sự năm 2015; phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện pháp luật dân sự đặt ra đối với một giao dịch dân sự. Đồng thời, hợp đồng nhượng quyền thương mại thể hiện bản chất của giao dịch nhượng quyền thương mại.

Mặc dù Luật Thương mại năm 2005 không đưa ra định nghĩa cụ thể về hợp đồng nhượng quyền thương mại nhưng tại Nghị định số 35/2006/NĐ-CP ngày 31/3/2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động nhượng quyền thương mại (Nghị định số 35/2006/NĐ-CP) lại đưa ra định nghĩa về các dạng đặc biệt của hợp đồng nhượng quyền thương mại như “Hợp đồng phát triển quyền thương mại” hoặc “Hợp đồng nhượng quyền thương mại thứ cấp”. Có thể thấy, việc đưa ra định nghĩa cụ thể về những dạng biến thể này là cần thiết. Tuy nhiên, khi giải thích về nghĩa của cả hai biến thể nói trên, các nhà làm luật vẫn sử dụng thuật ngữ “hợp đồng nhượng quyền thương mại” để làm cầu nối.

Việc pháp luật thương mại không đưa ra định nghĩa về hợp đồng nhượng quyền thương mại mà lại dùng chính thuật ngữ này để giải thích cho các thuật ngữ khác có liên quan là chưa đảm bảo tính hệ thống và tính chính xác cần phải có đối với các quy định pháp luật trong bối cảnh hiện nay. Việc không có một khái niệm chính thức, rõ ràng về hợp đồng nhượng quyền thương mại mà lại dùng chính thuật ngữ này để giải thích cho các thuật ngữ khác có liên quan là chưa bảo đảm tính hệ thống và tính chính xác cần phải có đối với các quy định pháp luật trong bối cảnh hiện nay. Đồng thời, sẽ khiến cho việc áp dụng pháp luật trở nên khó khăn, thiếu minh bạch, dễ tùy tiện… bởi hợp đồng nhượng quyền thương mại là loại hợp đồng có nhiều nét tương đồng, dễ gây nhầm lẫn với nhiều loại hợp đồng khác như li-xăng, chuyển giao công nghệ, đại lý…

Thứ hai, nội dung của đối tượng chuyển giao trong quan hệ nhượng quyền theo quy định hiện nay chưa bao hàm đầy đủ các quyền sở hữu trí tuệ, đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ và các yếu tố sở hữu trí tuệ khác cấu thành nên quyền thương mại mà các thương nhân trong hệ thống nhượng quyền chuyển giao cho nhau.

Luật Thương mại năm 2005 và Nghị định số 35/2006/NĐ-CP đều thống nhất bộ phận cấu thành của quyền thương mại bao gồm: Nhãn hiệu; tên thương mại; khẩu hiệu kinh doanh; biểu tượng kinh doanh và quảng cáo của bên nhượng quyền. Trong khi đó, trên thực tế, các bộ phận cấu thành quyền thương mại còn có thể bao gồm các đối tượng khác của các quyền sở hữu trí tuệ như: Kiểu dáng công nghiệp, tác phẩm, vật liệu nhân giống, vật liệu thu hoạch, quy trình, trưng bày…

Thứ ba, cách định nghĩa quyền thương mại trong Nghị định số 35/2006/NĐ-CP chưa minh bạch giữa các yếu tố sở hữu trí tuệ được chuyển giao cấu thành quyền thương mại với việc phân loại các hình thức nhượng quyền thương mại, dễ dẫn đến nhầm lẫn giữa hợp đồng nhượng quyền với các hợp đồng về sở hữu trí tuệ khác. Cụ thể: Điểm a khoản 6 Điều 3 Nghị định số 35/2006/NĐ-CP định nghĩa quyền thương mại bằng cách nêu ra quyền của bên nhận quyền được kinh doanh bằng một hệ thống gắn liền với các yếu tố sở hữu trí tuệ thuộc sở hữu của bên nhượng quyền. Trong khi đó, các điểm b, c, d khoản 6 Điều này lại quy định về các hình thức nhượng quyền thương mại.

Thứ tư, khái niệm bí quyết kinh doanh chưa được giải thích, quy định trong văn bản quy phạm pháp luật, chưa được sử dụng thống nhất trong các định nghĩa về quyền thương mại trong Luật Thương mại năm 2005 và Nghị định số 35/2006/NĐ-CP. Theo đó, khoản 1 Điều 284 Luật Thương mại năm 2005 có sử dụng khái niệm bí quyết kinh doanh nhưng định nghĩa về quyền thương mại tại khoản 6 Điều 3 Nghị định số 35/2006/NĐ-CP không sử dụng khái niệm này. Việc bí quyết kinh doanh không được giải thích và không được sử dụng thống nhất trong các quy định của pháp luật về quyền thương mại có thể khiến cho quyền thương mại - với tư cách là đối tượng của hoạt động nhượng quyền thương mại không được pháp luật bảo vệ một cách đầy đủ, dễ bị xâm phạm và gây ảnh hưởng xấu đến sự tồn tại và phát triển của hoạt động thương mại này.

Thứ năm, Điều 8 Nghị định số 08/2018/NĐ-CP ngày 15/01/2018 của Chính phủ sửa đổi một số nghị định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Công Thương (Nghị định số 08/2018/NĐ-CP) quy định điều kiện đối với bên nhượng quyền như sau: “Thương nhân được phép cấp quyền thương mại khi hệ thống kinh doanh dự định dùng để nhượng quyền đã được hoạt động ít nhất một năm”. Điều này cũng tăng tính khả thi, bảo đảm quyền lợi cho các thương nhân nhận quyền. Nghị định này cũng quy định hủy bỏ Điều 6 về điều kiện đối với bên nhận quyền, Điều 7 về hàng hóa, dịch vụ được phép kinh doanh nhượng quyền thương mại tại Nghị định số 35/2006/NĐ-CP nhằm nâng cao, mở rộng và bảo đảm quyền chọn cho bên nhận quyền. Tuy nhiên, hiện nay, chưa có quy định cụ thể đối với bên nhượng quyền là thương nhân nước ngoài, thương nhân Việt Nam nhượng quyền thương mại ra nước ngoài.

Thứ sáu, căn cứ đơn phương chấm dứt hợp đồng nhượng quyền thương mại của bên nhận quyền theo quy định của pháp luật thương mại Việt Nam hiện nay chưa thể hiện sự bình đẳng giữa các chủ thể trong quan hệ nhượng quyền khi cho phép: “Bên nhận quyền có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng nhượng quyền thương mại trong trường hợp Bên nhượng quyền vi phạm nghĩa vụ quy định tại Điều 287 Luật Thương mại”. Rõ ràng, với quy định như vậy sẽ rất dễ để bên nhận quyền lạm dụng đơn phương chấm dứt hợp đồng nhượng quyền thương mại bất cứ khi nào.

2. Một số kiến nghị hoàn thiện

Một là, như đã phân tích ở trên, hiện nay, Luật Thương mại năm 2005 và các văn bản hướng dẫn đều thiếu quy định về khái niệm hợp đồng nhượng quyền thương mại. Vì vậy, cần bổ sung khái niệm cụ thể, phù hợp để hoàn thiện pháp luật về hợp đồng nhượng quyền thương mại nói riêng và pháp luật về nhượng quyền thương mại nói chung. Theo đó, khái niệm hợp đồng nhượng quyền thương mại cần được bổ sung vào Luật Thương mại năm 2005 và làm rõ theo hướng: Đưa ra định nghĩa hợp đồng nhượng quyền thương mại trên cơ sở các quy định của pháp luật về hợp đồng và những đặc trưng cơ bản của hoạt động nhượng quyền thương mại; bên cạnh đó, từ định nghĩa hợp đồng nhượng quyền thương mại, có thể đưa ra sự phân loại một cách trực tiếp hay gián tiếp các loại hợp đồng nhượng quyền thương mại. Đồng thời, cần chỉ ra quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên nhượng quyền sơ cấp, nhận quyền sơ cấp, nhượng quyền thứ cấp, nhận quyền thứ cấp.

Hai là, vì nội dung của đối tượng chuyển giao trong quan hệ nhượng quyền thương mại theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay chưa bao hàm đầy đủ các quyền sở hữu trí tuệ, đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ và các yếu tố sở hữu trí tuệ khác cấu thành nên quyền thương mại mà các thương nhân trong hệ thống nhượng quyền chuyển giao cho nhau. Ngược lại, pháp luật Liên minh châu Âu (EU) quy định rất đầy đủ các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ trong vấn đề đối tượng của hợp đồng nhượng quyền thương mại. Vì vậy, cần bổ sung đầy đủ các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ theo pháp luật Việt Nam vào định nghĩa về quyền thương mại trên cơ sở tham chiếu pháp luật EU. Sự bổ sung này là hợp lý, bởi lẽ, nhượng quyền thương mại trong tương lai sẽ còn phát triển, thâm nhập vào rất nhiều lĩnh vực kinh doanh khác mà không chỉ dừng lại ở lĩnh vực kinh doanh hàng tiêu dùng. Ở Việt Nam, trên thực tiễn đã xuất hiện hoạt động nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực kinh doanh công nghệ, nhượng quyền thương mại trong kinh doanh thời trang và còn có thể xuất hiện nhượng quyền thương mại trong lĩnh vực nông nghiệp. Trong đối tượng của những quan hệ nhượng quyền thương mại này, bao gồm tất cả những loại quyền sở hữu trí tuệ theo pháp luật Việt Nam như: Quyền tác giả; quyền sở hữu công nghiệp trong lĩnh vực kinh doanh thời trang, công nghệ; quyền đối với giống cây trồng trong lĩnh vực nông nghiệp.

Do đó, thiết nghĩ, cần bổ sung tất cả những đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ theo pháp luật Việt Nam vào quy định về hoạt động nhượng quyền thương mại tại Điều 284 Luật Thương mại năm 2005 và quy định về định nghĩa quyền thương mại tại điểm a khoản 6 Điều 3 Nghị định số 35/2006/NĐ-CP theo hướng, quyền thương mại bao gồm một, một số hoặc toàn bộ các quyền sau đây: Quyền được bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành công việc kinh doanh cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ theo một hệ thống do bên nhượng quyền quy định và được gắn với các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ của bên nhượng quyền theo pháp luật về sở hữu trí tuệ.

Ba là, do cách định nghĩa quyền thương mại trong Nghị định số 35/2006/NĐ-CP đã có sự nhầm lẫn giữa các yếu tố sở hữu trí tuệ được chuyển giao cấu thành quyền thương mại với việc phân loại các hình thức nhượng quyền thương mại. Vì vậy, tác giả đề xuất định nghĩa về quyền thương mại tại khoản 6 Điều 3 của Nghị định này căn cứ vào điểm a và bỏ các quyền khác tại các điểm b, c, d khoản này.

Bốn là, khái niệm bí quyết kinh doanh chưa được sử dụng thống nhất trong các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại và chưa được giải thích trong bất kỳ văn bản nào, tác giả đề xuất bổ sung mới khái niệm bí quyết kinh doanh vào Điều 3 về giải thích từ ngữ trong Nghị định số 35/2006/NĐ-CP để thống nhất với khái niệm bí quyết kinh doanh được sử dụng trong quy định về hoạt động nhượng quyền thương mại tại Điều 284 Luật Thương mại năm 2005, cụ thể như sau: “Bí quyết kinh doanh là tập hợp những thông tin hành nghề có tính chất bí mật, quan trọng và xác thực, được đúc kết từ kinh nghiệm và sự thử nghiệm của bên nhượng quyền và không phải là đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ theo pháp luật về sở hữu trí tuệ. Bí quyết kinh doanh có thể được xác định theo thỏa thuận của các bên trong hợp đồng nhượng quyền thương mại”. Bên cạnh đó, cũng cần có những quy định cụ thể nhằm bảo đảm quyền lợi bên nhượng quyền trong việc bảo vệ bí quyết kinh doanh, tránh trường hợp bên nhận quyền có ý đồ chiếm đoạt bí quyết kinh doanh.

Năm là, cần quy định cụ thể đối với bên nhượng quyền là thương nhân nước ngoài trong trường hợp quy định tại Điều 8 Nghị định số 08/2018/NĐ-CP về điều kiện đối với bên nhượng quyền.

Sáu là, cần sửa đổi, quy định theo hướng, sự vi phạm nghĩa vụ của bên nhượng quyền quy định tại Điều 287 Luật Thương mại năm 2005 đến mức độ nào để được coi là căn cứ đơn phương chấm dứt hợp đồng của bên nhận quyền sao cho bảo đảm được tính hợp lý và cân bằng.

Có thể nói, hoạt động nhượng quyền thương mại đã được pháp luật Việt Nam quy định khá cụ thể và chi tiết, thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với hình thức kinh doanh này. Tuy nhiên, vẫn còn một số vướng mắc, hạn chế cần sửa đổi, bổ sung để pháp luật về hoạt động nhượng quyền thương mại nói chung và hợp đồng nhượng quyền thương mại nói riêng của Việt Nam phù hợp, đáp ứng tốt hơn nhu cầu thực tiễn và đồng bộ với pháp luật quốc tế, thúc đẩy phát triển kinh tế, thương hiệu Việt Nam lớn mạnh, tự tin hội nhập quốc tế.

TS. Lê Minh Thái

Khoa Luật, Đại học Văn Lang

Ảnh: Internet

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 392), tháng 11/2023)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 194/2025/QH15 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo cơ sở pháp lý thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Bài viết nghiên cứu, phân tích về những nội dung cần bổ sung vào chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để thực hiện việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đang lấy ý kiến nhân dân để thực hiện các chủ trương của Đảng về việc sắp xếp lại chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, không tổ chức cấp huyện. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi bộ máy hành chính phải được tổ chức khoa học, tinh, gọn, minh bạch, hiệu quả nhằm tạo đà cho đất nước phát triển càng trở lên cấp thiết. Xuất phát từ thực trạng tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã và đòi hỏi của thực tiễn, bài viết đề xuất một số gợi mở về đổi mới tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã trong thời gian tới.
Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội như hiện nay, việc tổ chức lại bộ máy chính quyền theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (dự thảo Nghị quyết) là yêu cầu tất yếu. Điều này đòi hỏi phải cải cách toàn diện cả về cấu trúc chiều ngang (sáp nhập địa giới hành chính) và chiều dọc (rút gọn cấp chính quyền trung gian) nhằm mở rộng không gian phát triển, tăng cường tính liên kết giữa trung ương và cơ sở, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân. Bài viết nghiên cứu mô hình tổ chức chính quyền địa phương gắn với địa bàn cụ thể dưới góc nhìn từ cơ sở (Tây Nguyên) để đưa ra những phân tích, nhận định và đề xuất giải pháp cho việc cải cách chính quyền địa phương theo dự thảo Nghị quyết.
So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

Bài viết phân tích, nghiên cứu thiết chế chính quyền địa phương ở Cộng hòa Pháp và Việt Nam; so sánh một số điểm tương đồng, khác biệt về tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương theo hiến pháp của hai nước. Trên cơ sở mô hình tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương của Cộng hòa Pháp, bài viết đề xuất một số kiến nghị để Việt Nam nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cuộc “cách mạng” về tinh gọn bộ máy theo các chủ trương, chính sách của Đảng và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.
Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử. Trên cơ sở nhận diện những khó khăn, vướng mắc, bài viết đề xuất các khuyến nghị để xây dựng khung pháp lý toàn diện, hiệu quả hơn trong việc tích hợp trí tuệ nhân tạo vào công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời gian tới.

Trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bài viết phân tích, đánh giá một số khía cạnh pháp lý, kinh tế của chế độ trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện về chế độ trách nhiệm hữu hạn trong pháp luật doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam.

Hoàn thiện quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dùng vào việc thờ cúng

Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng qua các thời kỳ và thực tiễn áp dụng pháp luật qua công tác xét xử của Tòa án đối với tranh chấp liên quan đến chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng, từ đó, đưa ra một số gợi mở nhằm hoàn thiện chế định này.
Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Sau hơn 11 năm triển khai thi hành, Hiến pháp năm 2013 đã tạo cơ sở hiến định quan trọng cho việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Bên cạnh những kết quả đạt được, hiện nay, việc thực hiện các quy định của Hiến pháp và pháp luật liên quan đến Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và chính quyền địa phương vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện nhằm để đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Ủy ban Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 ban hành Kế hoạch tổ chức lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Việc lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết nhằm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, huy động trí tuệ, tâm huyết và tạo sự đồng thuận, thống nhất cao của toàn dân trong việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013, bảo đảm Hiến pháp phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của Nhân dân.
Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013 là một sự kiện chính trị và pháp lý trọng đại, dù ở phạm vi, quy mô nào cũng là một công việc rất hệ trọng, thiêng liêng. Do vậy, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp phải được tiến hành thận trọng, khách quan, dân chủ, khoa học, hiệu quả với sự tham gia tích cực, đồng bộ của các cơ quan, tổ chức, các chuyên gia, nhà khoa học và toàn thể Nhân dân theo đúng chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính  – bổ sung nhiều quy định mới

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính – bổ sung nhiều quy định mới

Trên cơ sở phát biểu đề dẫn của đồng chí Trương Thế Côn, Tổng Biên tập Tạp chí Dân chủ và pháp luật, phát biểu của đồng chí Hồ Quang Huy, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính về sự cần thiết, quá trình soạn thảo và định hướng xây dựng Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm pháp luật hành chính, Hội thảo khoa học “Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi pham hành chính” đã tiếp nhận được gần 20 ý kiến phát biểu và hơn 10 bài nghiên cứu chuyên sâu. Các bài viết và ý kiến phát biểu tại Hội thảo sẽ được Tạp chí Dân chủ và Pháp luật và Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính tổng hợp, xem xét để gửi tới cá nhân, cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong quá trình xây dựng, quyết định chính sách.
Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp.
Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp  nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV khai mạc sáng ngày 05/5/2025. Đây là Kỳ họp có nhiều nội dung quan trọng, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII - Hội nghị lịch sử, bàn về những quyết sách lịch sử trong giai đoạn Cách mạng mới của nước ta, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.

Bàn về các xu hướng phát triển của pháp luật Việt Nam trong kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Các xu hướng phát triển pháp luật là biểu hiện các quy luật phát triển pháp luật có ý nghĩa phương pháp luận, lý luận và thực tiễn quan trọng, gắn liền với việc xây dựng chiến lược phát triển pháp luật ở nước ta; các xu hướng phát triển pháp luật chịu sự tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau. Bài viết nghiên cứu, tìm hiểu các xu hướng phát triển pháp luật Việt Nam trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm