Thứ hai 08/12/2025 01:57
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Rà soát, cập nhật thông tin đương nhiên được xóa án tích theo Nghị quyết số 41/2017/QH14

Ngày 20/6/2017, cùng với việc thông qua Luật số 12/2017/QH14 (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13), Quốc hội khóa XIV, kỳ họp thứ 3 đã thông qua Nghị quyết số 41/2017/QH14 về việc thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 và về hiệu lực thi hành của Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự số 99/2015/QH13, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13 (sau đây gọi là Nghị quyết số 41/2017/QH14), Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và Sở Tư pháp có trách nhiệm rà soát các đối tượng người bị kết án thuộc diện đương nhiên được xóa án tích theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 và cập nhật thông tin vào lý lịch tư pháp của người đó; cấp Phiếu lý lịch tư pháp ghi “không có án tích” cho họ khi có yêu cầu.


Việc rà soát các đối tượng người bị kết án thuộc diện đương nhiên được xóa án tích theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 và cập nhật thông tin vào lý lịch tư pháp của người bị kết án được thực hiện như sau:

1. Đối tượng rà soát đương nhiên được xóa án tích theo Nghị quyết số 41/2017/QH14

Theo quy định tại các điểm d, đ, e và g khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14, người đã chấp hành xong hình phạt hoặc được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt hoặc phần hình phạt còn lại và thuộc một trong các trường sau sẽ đương nhiên được xóa án tích:

- Người bị kết án do thực hiện hành vi mà Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định là tội phạm nhưng Bộ luật Hình sự năm 2015 không quy định là tội phạm.

- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị kết án do phạm tội không thuộc các tội quy định tại khoản 2 Điều 12 và khoản 3 Điều 14 Bộ luật Hình sự năm 2015.

- Người bị kết án do thực hiện hành vi theo Bộ luật Hình sự năm 1999 (được hướng dẫn thi hành trong các văn bản quy phạm pháp luật) là tội phạm nhưng Bộ luật Hình sự năm 2015 có sửa đổi, bổ sung, thay đổi các yếu tố cấu thành tội phạm nên hành vi đó không cấu thành tội phạm nữa.

- Người được áp dụng quy định có lợi của Bộ luật Hình sự năm 2015 theo Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 29/6/2016 của Quốc hội về việc lùi hiệu lực thi hành của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13, Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự số 99/2015/QH13, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13 để xét xử nhưng Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 không quy định là tội phạm nữa.

So với Nghị quyết số 109/2015/QH13 ngày 27/11/2015 của Quốc hội, Nghị quyết số 41/2017/QH14 bổ sung hai đối tượng thuộc diện đương nhiên được xóa án tích sau:

Một là, người bị kết án do thực hiện hành vi theo Bộ luật Hình sự năm 1999 (được hướng dẫn thi hành trong các văn bản quy phạm pháp luật) là tội phạm nhưng do có sửa đổi, bổ sung, thay đổi các yếu tố cấu thành tội phạm nên hành vi đó không cấu thành là tội phạm nữa.

Hai là, các trường hợp đã áp dụng quy định có lợi của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử mà Luật số 12/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 không quy định là tội phạm nữa.

Bên cạnh đó, đối với đối tượng từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội, mặc dù Nghị quyết số 41/2017/QH giữ nguyên đối tượng như Nghị quyết số 109/QH13/2015, nhưng do chính sách hình sự đối với đối tượng này có thay đổi, nên cơ sở để xác định đối tượng này cũng có những thay đổi nhất định.

Theo kế hoạch triển khai thi hành Bộ luật Hình sự của Chính phủ thì các trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân có trách nhiệm rà soát các đối tượng người bị kết án thuộc diện được miễn chấp hành hình phạt theo quy định tại các điểm d, đ và e khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 mà cơ quan, đơn vị mình đang quản lý và làm thủ tục đề nghị Tòa án có thẩm quyền miễn chấp hành hình phạt cho họ, đồng thời, gửi danh sách các đối tượng được đề nghị miễn chấp hành hình phạt theo quy định tại các điểm d, đ và e khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 cho Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia để cập nhật thông tin xóa án tích đương nhiên vào lý lịch tư pháp của người bị kết án đó. Cũng theo kế hoạch triển khai thi hành Bộ luật Hình sự của Chính phủ, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, các Sở Tư pháp có trách nhiệm rà soát các đối tượng người bị kết án thuộc diện đương nhiên được xóa án tích theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14, cập nhật thông tin vào lý lịch tư pháp của người đó và cấp Phiếu lý lịch tư pháp ghi “không có án tích” cho họ khi có yêu cầu.

Như vậy, theo Nghị quyết số 41/2017/QH14 và kế hoạch triển khai thi hành Bộ luật Hình sự thì Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và các Sở Tư pháp có trách nhiệm rà soát đối tượng người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt và thuộc bốn trường hợp đã nêu trên. Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện tại việc xác định hành vi theo Bộ luật Hình sự năm 1999 (được hướng dẫn thi hành trong các văn bản quy phạm pháp luật) là tội phạm nhưng do Bộ luật Hình sự năm 2015 có sửa đổi, bổ sung, thay đổi các yếu tố cấu thành tội phạm nên hành vi đó không cấu thành tội phạm nữa để làm cơ sở cho việc rà soát đối với đối tượng chưa rõ, vì vậy đối với đối tượng này khi cá nhân có yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp thì cơ quan có thẩm quyền cấp Phiếu lý lịch tư pháp sẽ phối hợp với Tòa án có thẩm quyền để xác minh, đánh giá hồ sơ và thống nhất cách thức xử lý. Trường hợp người được cấp Phiếu lý lịch tư pháp đủ điều kiện đương nhiên được xóa án tích thì cấp Phiếu lý lịch tư pháp xác nhận “không có án tích” và cập nhật thông tin này vào cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp.

2. Kết quả thực hiện rà soát đối tượng đương nhiên được xóa án tích theo Nghị quyết số 41/2017/QH14 tại Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và Sở Tư pháp

Thực hiện nhiệm vụ rà soát các đối tượng thuộc diện đương nhiên được xóa án tích theo Nghị quyết số 41/2017/QH14, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia đã tiến hành triển khai thực hiện rà soát, đồng thời phối hợp với Cục Công nghệ thông tin bổ sung tính năng cảnh báo đương nhiên xóa án tích trên phần mềm quản lý lý lịch tư pháp dùng chung (tính năng này được xây dựng trên cơ sở kế thừa tính năng cảnh báo đương nhiên xóa án tích theo Nghị quyết số 109/2015/QH13), cụ thể:

2.1. Đối với đối tượng bị kết án bởi các tội mà Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định là tội phạm nhưng Bộ luật Hình sự năm 2015 không quy định là tội phạm

Các đối tượng này được xác lập trên cơ sở xác định những trường hợp bị kết án bởi 05 tội danh Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định là tội phạm, bao gồm:

- Tảo hôn (điểm b Điều 148 Bộ luật Hình sự năm 1999);

- Báo cáo sai trong quản lý kinh tế (Điều 167 Bộ luật Hình sự năm 1999);

- Vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (Điều 170 Bộ luật Hình sự năm 1999);

- Sử dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng (Điều 178 Bộ luật Hình sự năm 1999);

- Không chấp hành các quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính (Điều 269 Bộ luật Hình sự năm 1999).

2.2. Đối với đối tượng từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội thuộc đối tượng đương nhiên được xóa án tích theo Nghị quyết số 41/2017/QH14

Đối tượng này được xác lập trên cơ sở xác định những người 20 tuổi trở xuống (trường hợp chỉ có năm sinh thì tính ngày, tháng sinh là ngày 01 tháng 01) và những người không xác định được tuổi tính đến ngày tuyên án, đã bị kết án bởi những tội không quy định tại khoản 2 Điều 12 và khoản 3 Điều 14 Bộ luật Hình sự năm 2015.

2.3. Đối với đối tượng bị kết án do thực hiện hành vi theo Bộ luật Hình sự năm 1999 (được hướng dẫn thi hành trong các văn bản quy phạm pháp luật) là tội phạm nhưng do có sửa đổi, bổ sung, thay đổi các yếu tố cấu thành tội phạm nên hành vi đó không cấu thành tội phạm nữa

Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia đã tổ chức rà soát, đối chiếu tổng số 303/303 điều thuộc Phần thứ hai - Phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự năm 2015 với quy định tương ứng của Bộ luật Hình sự năm 1999 nhằm xác định hành vi theo Bộ luật Hình sự năm 1999 (được hướng dẫn thi hành trong các văn bản quy phạm pháp luật) là tội phạm nhưng do có sửa đổi, bổ sung, thay đổi các yếu tố cấu thành tội phạm nên hành vi đó không cấu thành là tội phạm nữa.

Kết quả bước đầu cho thấy có 64 điều của Bộ luật Hình sự năm 1999 (được hướng dẫn thi hành trong các văn bản quy phạm pháp luật) được Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung yếu tố cấu thành tội phạm nên có hành vi hoặc có khả năng có hành vi cấu thành tội phạm nữa, bao gồm:

- 11 điều có đủ cơ sở để xác định hành vi không cấu thành tội phạm;

- 53 điều có khả năng có hành vi không cấu thành tội.

3. Một số khó khăn, vướng mắc khi thực hiện nhiệm vụ rà soát các đối tượng người bị kết án thuộc diện đương nhiên xóa án tích theo Nghị quyết số 41/2017/QH14

Đối với đối tượng đương nhiên được xóa án tích do thực hiện hành vi theo Bộ luật Hình sự năm 1999 (được hướng dẫn thi hành trong các văn bản quy phạm pháp luật) là tội phạm nhưng do có sửa đổi, bổ sung, thay đổi các yếu tố cấu thành tội phạm nên hành vi đó không cấu thành tội phạm nữa, việc rà soát gặp khó khăn, vướng mắc, cụ thể:

Thứ nhất, cơ sở để xác định hành vi theo Bộ luật Hình sự năm 1999 (được hướng dẫn thi hành trong các văn bản quy phạm pháp luật) là tội phạm nhưng do có sửa đổi, bổ sung, thay đổi các yếu tố cấu thành tội phạm nên hành vi đó có thể không cấu thành là tội phạm nữa.

Để xác định được hành vi theo Bộ luật Hình sự năm 1999 (được hướng dẫn thi hành trong các văn bản quy phạm pháp luật) là tội phạm nhưng do có sửa đổi, bổ sung, thay đổi các yếu tố cấu thành tội phạm nên hành vi đó không cấu thành tội phạm nữa, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia đã tiến hành rà soát 303 điều của Bộ luật Hình sự năm 2015 có sửa đổi, bổ sung so với Bộ luật Hình sự năm 1999 và đã xác định được có 64 điều của Bộ luật Hình sự năm 1999 có hành vi hoặc có khả năng có hành vi không cấu thành tội phạm nữa.

Qua rà soát, đối chiếu cho thấy, hầu hết các điều luật này đều quy định tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”, “số lượng lớn”, “số lượng rất lớn”, “số lượng đặc biệt lớn”, “giá trị lớn”, “giá trị rất lớn”, “giá trị đặc biệt lớn”… là một trong những yếu tố cấu thành tội phạm. Có những điều các tình tiết này được hướng dẫn tại các văn bản quy phạm pháp luật, nhưng cũng có những điều chưa được hướng dẫn. Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung 64 điều này theo hướng cụ thể hóa các tình tiết nêu trên. Tuy nhiên, khi đối chiếu thì hoặc quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 không tương ứng với quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 (chỉ quy định một hoặc một vài hành vi trước đây được xác định là thuộc trường hợp “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”...) hoặc không có cơ sở để xác định vì quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 chưa có văn bản hướng dẫn.

Thứ hai, khó khăn trong việc xác định chính xác đối tượng người bị kết án thuộc diện đương nhiên được xóa án tích do thực hiện hành vi theo Bộ luật Hình sự năm 1999 (được hướng dẫn thi hành trong các văn bản quy phạm pháp luật) là tội phạm nhưng do có sửa đổi, bổ sung, thay đổi các yếu tố cấu thành tội phạm nên hành vi đó không cấu thành tội phạm nữa.

Để xác định được chính xác đối tượng đương nhiên được xóa án tích đòi hỏi sau khi xác định được hành vi theo Bộ luật Hình sự năm 1999 (được hướng dẫn thi hành trong các văn bản quy phạm pháp luật) là tội phạm nhưng do có sửa đổi, bổ sung, thay đổi các yếu tố cấu thành tội phạm nên hành vi đó không cấu thành tội phạm nữa, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và các Sở Tư pháp phải tiến hành rà soát thông tin có trong cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp và phải xem xét nội dung của từng bản án để xem xét từng hành vi cấu thành tội phạm và xác định người bị kết án “có tội” hay “không có tội” theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, trong khi đó, thông tin tại cơ sở dữ liệu của các Sở Tư pháp còn thiếu, chưa đầy đủ. Bên cạnh đó, hầu hết cán bộ thực hiện nhiệm vụ rà soát không có kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực hình sự nên khả năng đánh giá, nhận định, phân tích hành vi vi phạm của người bị kết án để làm căn cứ xác định đối tượng đương nhiên được xóa án tích còn rất hạn chế.

Thứ ba, hiện nay, đối với đối tượng thực hiện hành vi theo Bộ luật Hình sự năm 1999 (được hướng dẫn thi hành trong các văn bản quy phạm pháp luật) là tội phạm nhưng do có sửa đổi, bổ sung, thay đổi các yếu tố cấu thành tội phạm nên hành vi đó không cấu thành tội phạm nữa nhưng nếu đang chấp hành hình phạt hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt, thì các trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự có trách nhiệm tiến hành rà soát và làm thủ tục đề nghị Tòa án có thẩm quyền miễn chấp hành hình phạt cho họ. Trong khi đó, cũng đối tượng này nhưng nếu đã chấp hành xong hình phạt thì Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và các Sở Tư pháp có trách nhiệm rà soát và cập nhật thông tin về việc đương nhiên xóa án tích vào lý lịch tư pháp của người bị kết án.

4. Để khắc phục những khó khăn nêu trên, trước mắt, Sở Tư pháp cần tiếp tục tiến hành rà soát các trường hợp người bị kết án thuộc diện đương nhiên được xóa án tích theo Nghị quyết số 41/2017/QH14 trong cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp đối với 03 đối tượng:

(i) Người đã phạm các tội mà Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định là tội phạm nhưng Bộ luật Hình sự năm 2015 không quy định là tội phạm, bao gồm: Tảo hôn, báo cáo sai trong quản lý kinh kế; vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp; sử dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng; không chấp hành các quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính;

(ii) Các trường hợp đã áp dụng quy định có lợi của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 để khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử mà Luật số 12/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 không quy định của tội phạm nữa;

(iii) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi.

Ngoài ra, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia sẽ phối hợp với các đơn vị có liên quan của Tòa án nhân dân tối cao để trao đổi, bàn giải pháp tháo gỡ trong việc rà soát các trường hợp người bị kết án phạm các tội có các hành vi theo Bộ luật Hình sự năm 1999 (được hướng dẫn thi hành trong các văn bản quy phạm pháp luật) là tội phạm nhưng do có sửa đổi, bổ sung, thay đổi các yếu tố cấu thành tội phạm nên hành vi đó không cấu thành tội phạm nữa.

Hà Hằng

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bài viết nêu lên vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước và đề xuất một số giải pháp nâng cao vai trò của Bộ Tư pháp trong giai đoạn mới.
Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Trong quá trình phát triển của đất nước, đặc biệt, trong 10 năm gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế - xã hội Việt Nam, việc xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật là công tác đặc biệt quan trọng. Với sự nỗ lực không ngừng, Bộ Tư pháp đã cùng các bộ, ngành làm tốt công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống, góp phần quan trọng trong thực hiện thành công công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế, giữ vững chủ quyền quốc gia, an ninh, trật tự xã hội, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa, tinh thần của Nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội, xây dựng xã hội dân chủ, văn minh theo đường lối của Đảng và Nhà nước. Để đạt được những thành tựu đó, nhiều hoạt động đã được triển khai đồng bộ, từ công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL); đặc biệt, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực làm công tác xây dựng, thi hành pháp luật. Bộ Tư pháp đã chủ động, tích cực phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, trong đó có Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong công tác xây dựng thể chế, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác pháp chế.
Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Với chức năng là cơ quan của Chính phủ, thực hiện quản lý nhà nước về xây dựng và thi hành pháp luật, Bộ Tư pháp đã và đang đóng góp, góp phần quan trọng trong kiến tạo nền tảng pháp lý vững chắc, phục vụ mục tiêu phát triển đất nước; đồng thời, đóng vai trò chủ đạo trong xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ pháp luật, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và thúc đẩy tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những kết quả đạt được thể hiện qua các nội dung chính sau:
Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Ngày 01/01/2004, tỉnh Lai Châu chính thức được chia tách thành tỉnh Điện Biên và Lai Châu. Đây cũng là thời điểm Sở Tư pháp tỉnh Lai Châu (mới) được thành lập và đi vào hoạt động. Trải qua hơn 21 năm xây dựng và phát triển, ngành Tư pháp tỉnh Lai Châu đã vượt qua khó khăn, thử thách, ngày càng lớn mạnh và khẳng định được vai trò, vị thế của mình.
Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Trợ giúp pháp lý (TGPL) là một trong những chính sách xã hội có ý nghĩa nhân văn sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo đảm quyền được tiếp cận công lý bình đẳng của mọi tầng lớp Nhân dân, đặc biệt là nhóm những người yếu thế trong xã hội. Thông qua các hoạt động TGPL, người yếu thế trong xã hội được cung cấp, sử dụng dịch vụ pháp lý miễn phí khi có tranh chấp, góp phần nâng cao ý thức pháp luật và phòng ngừa vi phạm pháp luật. Trong hoạt động TGPL, đội ngũ luật sư đóng vai trò then chốt, là lực lượng trực tiếp thực hiện việc tư vấn, đại diện và bào chữa cho các đối tượng yếu thế. Tuy nhiên, thực tế cho thấy công tác TGPL còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, cả về cơ chế, nguồn lực và phương thức triển khai.
Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Việc tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong giảng dạy chương trình Trung cấp lý luận chính trị là yêu cầu tất yếu, góp phần trực tiếp vào việc xây dựng bản lĩnh chính trị, củng cố niềm tin và năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ đương chức và dự nguồn cấp cơ sở. Trên cơ sở thực tiễn công tác giảng dạy và yêu cầu đổi mới giáo dục lý luận chính trị, cần đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị (Học phần) tại Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ.
Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Trường Cao đẳng Luật miền Bắc được nâng cấp từ Trường Trung cấp Luật Thái Nguyên theo Quyết định số 869/QĐ-LĐTBXH ngày 10/7/2020 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (nay là Bộ Nội vụ), đã kế thừa hơn một thập kỷ kinh nghiệm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ pháp lý cấp cơ sở, đặc biệt, tại khu vực trung du và miền núi phía Bắc.
Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Bộ Tư pháp đã trang bị, bổ sung, ứng dụng các công nghệ mới như máy chủ ảo hóa, lưu trữ SAN; máy chủ ứng dụng, máy chủ cơ sở dữ liệu cho Trung tâm dữ liệu điện tử để đáp ứng yêu cầu quản lý, vận hành và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp.
Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Bài viết về những thành tựu nổi bật và định hướng phát triển công tác hành chính tư pháp trong thời gian tới.
Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Tạp chí) là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, có chức năng thông tin về khoa học pháp lý, thông tin lý luận, nghiệp vụ và thực tiễn trong xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp của Bộ, ngành Tư pháp; tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước theo quy định pháp luật; đồng thời, là diễn đàn trao đổi học thuật, thực tiễn và chính sách trong lĩnh vực pháp luật[1].
Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, thực hiện chức năng thông tin về các hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp và các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội trong nước và quốc tế; truyền thông, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hoạt động xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp phục vụ yêu cầu quản lý của Bộ Tư pháp, đáp ứng nhu cầu của xã hội về thông tin, nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật, phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tham gia định hướng tư tưởng, phản biện xã hội, khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết và tự lực, tự cường của Nhân dân, đồng hành với an sinh xã hội.
Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Để bảo đảm cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2026-2031 được tiến hành dân chủ, đúng pháp luật và thống nhất trên phạm vi cả nước, Hội đồng bầu cử quốc gia (HĐBCQG) được thành lập, giữ vai trò tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH); chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND). Việc tìm hiểu cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của HĐBCQG có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và cử tri thực hiện quyền làm chủ của mình, đồng thời giúp cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan thực hiện tốt nhiệm vụ trong công tác bầu cử.
Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Bài viết phân tích một số thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới của Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp.
Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ, ngành Tư pháp - Thành tựu đạt được và những yêu cầu trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ, ngành Tư pháp - Thành tựu đạt được và những yêu cầu trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Trong những năm qua, hoạt động nghiên cứu khoa học của Bộ Tư pháp đã khẳng định được vai trò cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn, giúp Lãnh đạo Bộ tham mưu với các cấp có thẩm quyền xây dựng các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác pháp luật, tư pháp, về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trợ giúp pháp lý - Điểm tựa pháp lý cho tuổi vị thành niên lầm lỡ

Trợ giúp pháp lý - Điểm tựa pháp lý cho tuổi vị thành niên lầm lỡ

Lứa tuổi vị thành niên là giai đoạn các em đang hình thành nhân cách, dễ bồng bột, thiếu kỹ năng kiểm soát cảm xúc và nhận thức pháp luật còn hạn chế. Nếu không được định hướng, các em rất dễ sa vào những hành vi vi phạm pháp luật đáng tiếc. Chỉ một phút nóng giận, một quyết định bồng bột… cũng đủ khiến tuổi trẻ phải trả giá bằng cả những tháng ngày sau song sắt. Thế nhưng, trong câu chuyện buồn ấy, vẫn có một điểm sáng nhân văn - đó là bàn tay nâng đỡ của trợ giúp pháp lý miễn phí, để một thiếu niên lầm lỡ có cơ hội sửa sai và làm lại từ đầu.

Theo dõi chúng tôi trên: