Thứ sáu 13/06/2025 09:48
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trong pháp luật quốc tế và pháp luật hình sự Việt Nam

Bảo vệ quyền trẻ em luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu của cộng đồng quốc tế nói chung và Việt Nam nói riêng. Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở châu Á và là quốc gia thứ hai trên thế giới ký kết và phê chuẩn Công ước của Liên Hợp quốc về quyền trẻ em. Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật nhằm nội luật hóa quy định của Công ước của Liên Hợp quốc về quyền trẻ em và tạo hành lang pháp lý xử lý những hành vi xâm hại đến quyền trẻ em. Bài viết phân tích một số quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật hình sự Việt Nam về hành vi xâm hại tình dục trẻ em, từ đó có một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em.



Xuất phát từ thực tế xã hội và quan điểm coi việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em là mối quan tâm đặc biệt hàng đầu, xem con người vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xem trẻ em là nguồn hạnh phúc của gia đình, là tương lai của dân tộc, là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Việt Nam là quốc gia đầu tiên ở châu Á và là quốc gia thứ hai trên thế giới ký kết và phê chuẩn Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em.

Thời gian qua, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật nhằm nội luật hóa quy định của Công ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em và tạo hành lang pháp lý xử lí những hành vi xâm hại đến quyền trẻ em. Trong đó, hoạt động xây dựng chế tài xử lý những hành vi phạm tội xâm hại trẻ em nói chung và xâm hại tình dục trẻ em nói riêng được đặc biệt quan tâm.

Theo báo cáo của Chính phủ, tính từ ngày 01/01/2015 đến ngày 30/6/2019, cả nước đã phát hiện, xử lý về hình sự và hành chính 8.091 vụ xâm hại trẻ em với 8.709 trẻ em bị xâm hại, trong đó xâm hại tình dục là 6.364 vụ với 6.432 trẻ em, chiếm 73,85% tổng số trẻ em bị xâm hại[1]. Ngoài số trẻ em bị xâm hại bởi các hình thức nêu trên, thì hành vi mại dâm người chưa thành niên cũng đáng báo động, nhiều nghiên cứu cho thấy cả trẻ em nam và nữ ở độ tuổi dưới 12 và dưới 18 đều tham gia vào các hoạt động tình dục vì mục đích thương mại. Theo ước tính có khoảng 13% đối tượng mại dâm ở độ tuổi dưới 18 tuổi[2].

Thực tế trên cho thấy, tội phạm xâm hại trẻ em nói chung và xâm hại tình dục trẻ em nói riêng đang có chiều hướng gia tăng. Đây là những tội phạm rất nguy hiểm, không chỉ gây ra thiệt hại cho xã hội, làm băng hoại nền tảng đạo đức mà còn gây ra những tổn thương nặng nề về thể chất và tâm lý rất khó khắc phục đối với nạn nhân. Chính vì lý do như trên nên đặt ra yêu cầu cấp thiết cần có những công cụ đấu tranh kịp thời mà một trong những công cụ chính là pháp luật.

1. Quy định pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về tội phạm xâm hại tình dục trẻ em

Thứ nhất, quy định pháp luật quốc tế về tội phạm xâm hại tình dục trẻ em

Nhằm tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động đấu tranh, xử lý hành vi xâm hại tình dục trẻ em, một loạt các văn kiện pháp lý quốc tế đã được ban hành. Những văn kiện pháp luật quốc tế quan trọng quy định về vấn đề này bao gồm Công ước về quyền trẻ em (1989) và Nghị định thư không bắt buộc bổ sung Công ước về quyền trẻ em về việc buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em (2000), Công ước của Liên Hợp Quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (2000) (UNTOC) và Nghị định thư về việc ngăn ngừa, phòng chống và trừng trị việc buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, bổ sung Công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia của Liên Hợp Quốc (2000) và Công ước số 182 về nghiêm cấm và hành động khẩn cấp xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất (1999) của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) (Công ước 182 của ILO). Đồng thời, một số văn kiện khác cũng bao hàm các quy định chung về nghĩa vụ bảo vệ trẻ em.

Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em xây dựng một tiêu chuẩn phổ quát về quyền trẻ em và đặt ra đòi hỏi với các quốc gia thành viên, theo đó, trong tất cả những hành động liên quan đến trẻ em, dù cho các cơ quan phúc lợi xã hội công cộng hay tư nhân, Tòa án, các nhà chức trách hành chính hay các cơ quan lập pháp tiến hành thì lợi ích tốt nhất của trẻ em phải là mối quan tâm hàng đầu[3].

Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em cũng đặt ra những chuẩn mực pháp lý quan trọng liên quan đến cuộc đấu tranh bảo vệ trẻ em khỏi xâm hại tình dục và tạo ra những cơ chế phù hợp để trẻ em tham gia vào các quá trình tư pháp hoặc hành chính. Điều 34 quy định các quốc gia phải thực hiện những biện pháp phù hợp với hoàn cảnh của mình và phối hợp với các quốc gia khác để bảo vệ trẻ em tránh khỏi mọi hình thức bóc lột tình dục và xâm hại tình dục, yêu cầu các quốc gia phải có những biện pháp thích hợp ở cấp quốc gia để ngăn ngừa: (i) Việc xúi giục hay ép buộc trẻ em tham gia vào bất kỳ hoạt động tình dục bất hợp pháp nào; (ii) Việc sử dụng có tính chất bóc lột trẻ em trong các hoạt động mại dâm và các hoạt động tình dục trái pháp luật khác; (iii) Việc sử dụng có tính chất bóc lột trẻ em trong việc biểu diễn và thực hiện các tài liệu khiêu dâm[4].

Nghị định thư không bắt buộc bổ sung Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em về việc buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em (2000) đòi hỏi các quốc gia thành viên phải có biện pháp cụ thể để nghiêm cấm việc mua bán trẻ em, mại dâm trẻ em và khiêu dâm trẻ em - các hoạt động mà bản thân văn kiện này nhìn nhận là có liên quan mật thiết tới hành vi xâm hại tình dục trẻ em. Những định nghĩa được quy định trong Nghị định thư này là những định nghĩa rộng, bao trùm nhiều hành vi khác nhau như: Mại dâm trẻ em (việc sử dụng trẻ em vào các hoạt động tình dục để nhận tiền hoặc bất kỳ hình thức thanh toán nào khác), khiêu dâm trẻ em (bất cứ sự thể hiện nào, dù bằng bất kỳ phương tiện gì, việc trẻ em tham gia vào các hoạt động tình dục một cách rõ ràng, thật hoặc mô phỏng hoặc bất kỳ sự thể hiện nào về những bộ phận sinh dục của trẻ em chủ yếu nhằm các mục đích tình dục). Nghị định thư này cũng quy định các quốc gia thành viên phải hình sự hóa những hành vi kể trên bất kể hành vi đó được thực hiện dưới hình thức nào (ví dụ: Hành vi này luôn luôn cấu thành tội phạm bất kể là do cá nhân thực hiện hay có tổ chức, trong một nước hay xuyên quốc gia). Ngoài ra, Nghị định thư này còn đòi hỏi hình sự hóa và có chế tài xử phạt thích đáng đối với các hành vi nghiêm trọng liên quan tới xâm hại tình dục trẻ em như: Cung cấp, chuyển giao, hay tiếp nhận trẻ em dưới bất cứ hình thức nào nhằm mục đích bóc lột tình dục trẻ em; mời chào, tìm giúp, môi giới hoặc cung cấp trẻ em cho mục đích mại dâm trẻ em; làm ra, phát tán, phổ biến, nhập khẩu, xuất khẩu, chào mời, bán hoặc tàng trữ tài liệu khiêu dâm trẻ em và tổ chức, xúi giục, giúp sức người thực hiện tội phạm thực hiện một trong các hành vi kể trên hoặc hành vi của người thực hiện tội phạm ở giai đoạn chưa hoàn thành.

Thứ hai, quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về tội phạm xâm hại tình dục trẻ em

Bộ luật Hình sự năm 2015 không quy định trực tiếp hành vi xâm hại tình dục trẻ em là một tội danh, tuy nhiên, hành vi này sẽ bị xử lý hình sự thông qua một số tội danh khác liên quan đến hành vi này, cụ thể:

Xâm hại tình dục: Bộ luật Hình sự năm 2015 ghi nhận một số tội liên quan tới xâm hại tình dục trẻ em, theo đó, bất kỳ hành vi giao cấu nào với trẻ em dưới 13 tuổi đều bị coi là hiếp dâm người dưới 16 tuổi và phải chịu mức hình phạt nghiêm khắc với khung hình phạt cao nhất là tử hình. Bộ luật Hình sự năm 2015 cũng có quy định một số tội danh khác như: Tội cưỡng dâm người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi (Điều 144)[5], Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 145) và Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146), Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147). Như vậy, đối với hành vi xâm hại tình dục trẻ em Bộ luật Hình sự năm 2015 đã có những điều khoản quy định cụ thể và có chế tài hình sự nghiêm khắc đối những hành vi này, đáp ứng được yêu cầu của các văn bản pháp luật quốc tế.

Mại dâm trẻ em: Bộ luật Hình sự hiện hành không quy định riêng một tội danh về “mại dâm trẻ em”. Tuy nhiên, Điều 329 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định hành vi về mua dâm với người dưới 18 tuổi, cụ thể, những người có hành vi mua dâm với người dưới 18 tuổi sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bất kể người chưa thành niên đồng ý với hành vi đó. “Mua dâm” được định nghĩa là hành vi của một người mua chuộc một trẻ chưa thành niên bằng lợi ích vật chất để trẻ đồng ý với hành vi giao cấu. Người mua dâm trẻ em dưới 13 tuổi bị xử lý về hành vi hiếp dâm người dưới 16 tuổi và bị áp dụng chế tài nghiêm khắc. Bộ luật Hình sự cũng cấm hành vi chứa chấp mại dâm (Điều 327) và môi giới mại dâm (Điều 328). Đối với cả hai tội danh này, hình phạt tăng nặng sẽ được áp dụng cho tội danh đối với trẻ em từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi và từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi.

Khiêu dâm trẻ em: Điều 326 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định tội truyền bá văn hoá phẩm đồi trụy bao gồm các hành vi: Làm ra, sao chép, lưu hành, vận chuyển, mua bán hoặc tàng trữ nhằm phổ biến sách, báo, tranh, ảnh, phim, nhạc hoặc những vật phẩm khác có tính chất đồi trụy hoặc hành vi khác truyền bá văn hoá phẩm đồi trụy. Trường hợp phạm tội truyền bá văn hoá phẩm đồi trụy đối với người dưới 18 tuổi thì hình phạt là tù từ 03 năm đến 10 năm. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung như phạt tiền, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định. Các thuật ngữ được sử dụng trong Bộ luật Hình sự năm 2015 để hình sự hoá hành vi truyền bá văn hoá phẩm đồi trụy cơ bản đã đáp ứng được các yêu cầu của Nghị định thư không bắt buộc của Công ước về quyền trẻ em.

Nhìn chung, theo quy định của Luật Hình sự Việt Nam, mặc dù không quy định trực tiếp hành vi xâm hại tình dục trẻ em nhưng thông qua các tội danh cụ thể khác liên quan đến nhóm hành vi xâm hại tình dục trẻ em phần nào cũng đã tiếp cận và sát hợp với các văn bản pháp luật quốc tế về quyền trẻ em.

2. Một số bất cập và đề xuất hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam về các tội phạm xâm hại tình dục trẻ em

Trên cơ sở đánh giá quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật hình sự Việt Nam về các tội phạm liên quan đến hành vi xâm hại tình dục trẻ em, chúng tôi nhận thấy còn một số bất cập và có một số đề xuất hướng hoàn thiện pháp luật hình sự như sau:

Thứ nhất, để tạo cơ sở cho việc xây dựng quy định về hành vi xâm hại tình dục trẻ em cần thống nhất khái niệm “trẻ em”. Trước đây, Bộ luật Hình sự năm 1999 đồng thời sử dụng hai khái niệm “trẻ em” và “người chưa thành niên”. Các khái niệm này được ghi nhận trong các luật cụ thể, theo Luật Trẻ em năm 2016 quy định “trẻ em là người dưới 16 tuổi” (Điều 1); còn theo Bộ luật Dân sự năm 2015 thì “người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi” (Điều 21). Việc sử dụng đồng thời hai khái niệm này tạo ra sự phân biệt “không cố ý” giữa trẻ em dưới 16 tuổi và người từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi (với vai trò là nạn nhân). Quy định như trên phần nào cũng chưa phù hợp với quy định của pháp luật quốc tế, theo đó, các quốc gia phải định nghĩa “trẻ em” là mọi người dưới 18 tuổi. Về vấn đề này, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã có sự sửa đổi không sử dụng thuật ngữ “trẻ em” và “người chưa thành niên” mà sử dụng các mốc độ tuổi để xác định như một tình tiết định khung tăng nặng trong các tội liên quan đến người dưới 18 tuổi (với vai trò là nạn nhân). Tuy nhiên, việc quy định như vậy cũng chỉ thay đổi về mặt hình thức chưa phản ánh được nội hàm của thuật ngữ “trẻ em” theo Công ước quốc tế về quyền trẻ em, điều này đặt ra yêu cầu phải tiếp tục nghiên cứu sửa đổi Bộ luật Hình sự theo hướng mở rộng độ tuổi của nạn nhân (đối với cả người từ 16 đến dưới 18 tuổi) để bảo đảm tất cả trẻ em được bảo vệ đầy đủ theo quy định của các chuẩn mực quốc tế và đảm bảo sự phù hợp giữa luật quốc gia và luật quốc tế.

Thứ hai, mặc dù Bộ luật Hình sự năm 2015 đã có sự thay đổi ở một số tội danh liên quan đến vấn đề xâm hại tình dục trẻ em, tuy nhiên, cũng có một số nội dung khác cần phải được nghiên cứu bổ sung. Chẳng hạn, hành vi gây cảm tình với nạn nhân (Grooming conduct) hiện nay chưa được tội phạm hóa trong Bộ luật Hình sự năm 2015. Hành vi này xảy ra khi kẻ phạm tội xâm hại tình dục trẻ em - có hành vi săn đón để bắt đầu và phát triển mối quan hệ với trẻ em, sử dụng quan hệ đó để xây dựng lòng tin nhằm mục đích cuối cùng là tiến tới việc xâm hại tình dục trẻ em đó[6]. Trong Luật Hình sự Việt Nam, hành vi gây cảm tình nhằm thực hiện hành vi phạm tội khá tương đồng với hành vi chuẩn bị thực hiện tội phạm (Điều 14 Bộ luật Hình sự năm 2015), tuy nhiên, các hành vi liên quan đến chuẩn bị thực hiện tội phạm xâm hại tình dục trẻ em lại không phải chịu trách nhiệm hình sự chính điều này tạo ra khoảng trống pháp lý và không đảm bảo tính răn đe, phòng ngừa đối với người chuẩn bị thực hiện hành vi xâm hại tình dục trẻ em.

Thứ ba, để phù hợp với Công ước quốc tế về quyền trẻ em và các văn bản pháp lý liên quan, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã quy định việc chứa mại dâm và môi giới mại dâm người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi như là một tình tiết tăng nặng trong hai tội này (Điều 327, Điều 328 Bộ luật Hình sự năm 2015).

Về mặt lập pháp có thể thấy mối liên hệ giữa ba hành vi chứa mại dâm, môi giới mại dâm và mua dâm người dưới 18 tuổi, nhưng việc xây dựng nội dung của ba điều luật này còn thiếu sự thống nhất. Chẳng hạn, trong trường hợp người có hành vi chứa chấp, môi giới mại dâm hoặc mua dâm mà nạn nhân là trẻ em duới 13 tuổi, thì người phạm tội không bị xử về các hành vi chứa chấp hay môi giới mại dâm hay mua dâm người dưới 18 tuổi mà bị xử về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (đối với người có hành vi mua dâm trẻ em) hoặc với vai trò là người đồng phạm cho hành vi hiếp dâm người dưới 16 tuổi (đối với người có hành vi chứa, môi giới mại dâm). Tuy nhiên, nếu người mua dâm người dưới 13 tuổi chưa thực hiện được hành vi phạm tội, thì không thể xử lý người có hành vi mua dâm cũng như người chứa chấp, môi giới mại dâm. Trong khi đó, độ tuổi của nạn nhân dưới 13 tuổi chưa được nhà làm luật ghi nhận trong tội chứa mại dâm và môi giới mại dâm dẫn tới lúng túng khi cá thể hoá trách nhiệm hình sự của người chứa và môi giới mại dâm người dưới 13 tuổi. Chính vì thế, theo quan điểm chúng tôi, cần phải bổ sung tình tiết tăng nặng chứa chấp, môi giới mại dâm đối với người dưới 13 tuổi để xử lý về các hành vi này (trong trường hợp người mua dâm người dưới 13 tuổi chưa thực hiện được hành vi mua dâm).

TS. Nguyễn Tất Thành
Khoa Luật, Đại học Văn Lang
ThS. Nguyễn Duy Dũng
Khoa Luật, Đại học Nguyễn Tất Thành


[1]. Chính phủ (2020), Báo cáo việc thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống xâm hại trẻ em, Hà Nội, tr. 03.

[2]. Bộ Công an, Báo cáo tổng kết thực hiện đấu tranh phòng chống mại dâm giai đoạn 2001 - 2005 và kế hoạch đấu tranh phòng chống mại dâm giai đoạn 2006 - 2010.

[3]. Liên Hợp Quốc (1989), Công ước về quyền trẻ em, Điều 3.

[4]. Liên Hợp Quốc (1989), Công ước về quyền trẻ em, Điều 34.

[5]. “Cưỡng ép quan hệ tình dục với trẻ em” được định nghĩa là “dùng những thủ đoạn lừa đảo để dụ dỗ trẻ em phụ thuộc vào người vi phạm hoặc dụ dỗ trẻ vào hoàn cảnh buộc phải quan hệ tình dục với người vi phạm mà trái với ý muốn của trẻ”.

[6]. Luật quốc gia của Úc, Anh và Mỹ đã dẫn chứng những điển hình bằng việc quy định các tội danh cụ thể cho hành vi dụ dỗ, chẳng hạn, theo Trung tâm Tội phạm Công nghệ cao châu Âu (EUROPOL), hành vi gây cảm tình với nạn nhân là “các yếu tố của tội phạm bao gồm đề xuất cố ý của một người đã thành niên để gặp gỡ với một trẻ em (người chưa đến tuổi hợp pháp đối với các hành vi tình dục) với ý định thực hiện hành vi xâm hại tình dục” (xem thêm: UNODC (2014), Bóc lột tình dục trẻ em trong du lịch và lữ hành: Báo cáo phân tích hệ thống pháp luật quốc gia, tr. 21).

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 194/2025/QH15 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo cơ sở pháp lý thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Bài viết nghiên cứu, phân tích về những nội dung cần bổ sung vào chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để thực hiện việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đang lấy ý kiến nhân dân để thực hiện các chủ trương của Đảng về việc sắp xếp lại chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, không tổ chức cấp huyện. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi bộ máy hành chính phải được tổ chức khoa học, tinh, gọn, minh bạch, hiệu quả nhằm tạo đà cho đất nước phát triển càng trở lên cấp thiết. Xuất phát từ thực trạng tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã và đòi hỏi của thực tiễn, bài viết đề xuất một số gợi mở về đổi mới tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã trong thời gian tới.
Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội như hiện nay, việc tổ chức lại bộ máy chính quyền theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (dự thảo Nghị quyết) là yêu cầu tất yếu. Điều này đòi hỏi phải cải cách toàn diện cả về cấu trúc chiều ngang (sáp nhập địa giới hành chính) và chiều dọc (rút gọn cấp chính quyền trung gian) nhằm mở rộng không gian phát triển, tăng cường tính liên kết giữa trung ương và cơ sở, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân. Bài viết nghiên cứu mô hình tổ chức chính quyền địa phương gắn với địa bàn cụ thể dưới góc nhìn từ cơ sở (Tây Nguyên) để đưa ra những phân tích, nhận định và đề xuất giải pháp cho việc cải cách chính quyền địa phương theo dự thảo Nghị quyết.
So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

Bài viết phân tích, nghiên cứu thiết chế chính quyền địa phương ở Cộng hòa Pháp và Việt Nam; so sánh một số điểm tương đồng, khác biệt về tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương theo hiến pháp của hai nước. Trên cơ sở mô hình tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương của Cộng hòa Pháp, bài viết đề xuất một số kiến nghị để Việt Nam nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cuộc “cách mạng” về tinh gọn bộ máy theo các chủ trương, chính sách của Đảng và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.
Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử. Trên cơ sở nhận diện những khó khăn, vướng mắc, bài viết đề xuất các khuyến nghị để xây dựng khung pháp lý toàn diện, hiệu quả hơn trong việc tích hợp trí tuệ nhân tạo vào công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời gian tới.

Trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bài viết phân tích, đánh giá một số khía cạnh pháp lý, kinh tế của chế độ trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện về chế độ trách nhiệm hữu hạn trong pháp luật doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam.

Hoàn thiện quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dùng vào việc thờ cúng

Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng qua các thời kỳ và thực tiễn áp dụng pháp luật qua công tác xét xử của Tòa án đối với tranh chấp liên quan đến chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng, từ đó, đưa ra một số gợi mở nhằm hoàn thiện chế định này.
Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Sau hơn 11 năm triển khai thi hành, Hiến pháp năm 2013 đã tạo cơ sở hiến định quan trọng cho việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Bên cạnh những kết quả đạt được, hiện nay, việc thực hiện các quy định của Hiến pháp và pháp luật liên quan đến Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và chính quyền địa phương vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện nhằm để đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Ủy ban Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 ban hành Kế hoạch tổ chức lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Việc lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết nhằm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, huy động trí tuệ, tâm huyết và tạo sự đồng thuận, thống nhất cao của toàn dân trong việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013, bảo đảm Hiến pháp phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của Nhân dân.
Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013 là một sự kiện chính trị và pháp lý trọng đại, dù ở phạm vi, quy mô nào cũng là một công việc rất hệ trọng, thiêng liêng. Do vậy, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp phải được tiến hành thận trọng, khách quan, dân chủ, khoa học, hiệu quả với sự tham gia tích cực, đồng bộ của các cơ quan, tổ chức, các chuyên gia, nhà khoa học và toàn thể Nhân dân theo đúng chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính  – bổ sung nhiều quy định mới

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính – bổ sung nhiều quy định mới

Trên cơ sở phát biểu đề dẫn của đồng chí Trương Thế Côn, Tổng Biên tập Tạp chí Dân chủ và pháp luật, phát biểu của đồng chí Hồ Quang Huy, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính về sự cần thiết, quá trình soạn thảo và định hướng xây dựng Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm pháp luật hành chính, Hội thảo khoa học “Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi pham hành chính” đã tiếp nhận được gần 20 ý kiến phát biểu và hơn 10 bài nghiên cứu chuyên sâu. Các bài viết và ý kiến phát biểu tại Hội thảo sẽ được Tạp chí Dân chủ và Pháp luật và Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính tổng hợp, xem xét để gửi tới cá nhân, cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong quá trình xây dựng, quyết định chính sách.
Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp.
Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp  nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV khai mạc sáng ngày 05/5/2025. Đây là Kỳ họp có nhiều nội dung quan trọng, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII - Hội nghị lịch sử, bàn về những quyết sách lịch sử trong giai đoạn Cách mạng mới của nước ta, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.

Bàn về các xu hướng phát triển của pháp luật Việt Nam trong kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Các xu hướng phát triển pháp luật là biểu hiện các quy luật phát triển pháp luật có ý nghĩa phương pháp luận, lý luận và thực tiễn quan trọng, gắn liền với việc xây dựng chiến lược phát triển pháp luật ở nước ta; các xu hướng phát triển pháp luật chịu sự tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau. Bài viết nghiên cứu, tìm hiểu các xu hướng phát triển pháp luật Việt Nam trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm