Thứ sáu 13/06/2025 09:48
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Bàn về hợp đồng nhượng quyền thương mại vô hiệu theo pháp luật Việt Nam

Bàn về hợp đồng nhượng quyền thương mại vô hiệu theo pháp luật Việt Nam

Tóm tắt: Những vấn đề pháp lý về hợp đồng nhượng quyền thương mại được điều chỉnh bởi nhiều quy định pháp luật như Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Cạnh tranh và nhiều quy định khác có liên quan. Tuy nhiên, quy định về hậu quả pháp lý của hợp đồng nhượng quyền thương mại vô hiệu phát sinh những bất cập cần sửa đổi, bổ sung để bảo đảm tính khả thi của quy định này.

Abstract: Legal issues on franchise contracts are governed by many legal regulations such as the Civil Code, Commercial Law, Intellectual Property Law, Competition Law and many other related regulations. However, the provisions on the legal consequences of an invalid franchise contract give rise to inadequacies that need to be amended and supplemented to ensure the feasibility of this provision.

1. Đặt vấn đề

Theo Điều 285 Luật Thương mại năm 2005, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và năm 2019 (sau đây gọi tắt là Luật Thương mại), hợp đồng nhượng quyền thương mại (NQTM) phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương. Các điều kiện quy định về hoạt động NQTM mại được quy định trong Nghị định số 35/2006/NĐ-CP ngày 31/3/2006 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động nhượng quyền thương mại (Nghị định số 35/2006/NĐ-CP) và Nghị định số 08/2018/NĐ-CP ngày 15/01/2018 của Chính phủ sửa đổi một số nghị định liên quan đến điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Công Thương (Nghị định số 08/2018/NĐ-CP).

Trường hợp các bên tham gia giao dịch dân sự về NQTM không bảo đảm các điều kiện có hiệu lực về giao dịch dân sự theo Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015 sẽ dẫn đến hợp đồng NQTM vô hiệu. Khi hợp đồng NQTM vô hiệu, các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.

Tuy nhiên, thực tiễn xét xử hiện nay đối với các tranh chấp dân sự liên quan đến yêu cầu tuyên bố hợp đồng NQTM vô hiệu chưa giải quyết toàn diện về hậu quả pháp lý của giao dịch vô hiệu liên quan đến nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo.

2. Quy định pháp luật về các điều kiện của hoạt động nhượng quyền thương mại

Hợp đồng dân sự có hiệu lực khi bảo đảm được các điều kiện về chủ thể giao kết hợp đồng, sự tự nguyện, mục đích, nội dung hợp đồng không trái quy định pháp luật, đạo đức xã hội và hình thức hợp đồng phù hợp với các quy định pháp luật. Theo pháp luật về NQTM, hợp đồng NQTM phải đáp ứng những điều kiện sau:

- Điều kiện hình thức hợp đồng: Hợp đồng NQTM phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương. Mặc dù, nguyên tắc cơ bản nhất của hợp đồng là tự do, ý chí, nhưng để bảo đảm về an toàn pháp lý trong quan hệ hợp đồng, tránh phát sinh tranh chấp trong tương lai và theo tính chất của đối tượng hợp đồng mà pháp luật dân sự có những yêu cầu khác nhau về hình thức hợp đồng. Đối với hợp đồng NQTM, hợp đồng có nội dung phức tạp, đối tượng thực hiện hợp đồng đồng có thể là tài sản vô hình hoặc tài hữu hình, thời gian thực hiện hợp đồng tương đối dài, thường xảy ra tranh chấp và khó giải quyết nếu chỉ được giao kết bằng lời nói hoặc hành vi cụ thể nên phải được lập thành văn bản[1]. Trường hợp các bên không bảo đảm về điều kiện hình thức, hợp đồng dân sự có thể bị vô hiệu theo khoản 2 Điều 117, Điều 129 và khoản 1 Điều 407 Bộ luật Dân sự năm 2015.

- Điều kiện chủ thể tham gia giao dịch: Mặc dù, Luật Thương mại không quy định về chủ thể trong hoạt động NQTM nhưng Nghị định số 35/2006/NĐ-CP hướng dẫn về hoạt động nhượng quyền đã định nghĩa: Bên nhượng quyền là thương nhân cấp quyền thương mại, bao gồm cả bên nhượng quyền thứ cấp trong mối quan hệ với bên nhận quyền thứ cấp (khoản 1 Điều 3); bên nhận quyền là thương nhân được nhận quyền thương mại, bao gồm cả bên nhận quyền thứ cấp trong mối quan hệ với bên nhượng quyền thứ cấp (khoản 2 Điều 3). Như vậy, chủ thể tham gia giao dịch trong hợp đồng NQTM phải là thương nhân, hay có thể hiểu là những tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh (khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại).

- Điều kiện hoạt động NQTM: Bên NQTM chỉ được phép nhượng quyền khi hệ thống kinh doanh dự định dùng để nhượng quyền đã hoạt động ít nhất một năm (theo Điều 5 Nghị định số 35/2006/NĐ-CP và Điều 8 Nghị định số 08/2018/NĐ-CP).

Ngoài ra, hợp đồng NQTM còn có thể bao gồm những điều khoản về sự chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp, sở hữu trí tuệ, sự hỗ trợ của bên nhượng quyền đối với bên nhận quyền trong suốt quá trình thực hiện và nghĩa vụ tài chính, nghĩa vụ đối ứng khác giữa bên nhận quyền và bên nhượng quyền nên tùy thuộc vào nội dung hợp đồng mà sẽ có những tình huống pháp lý khác nhau dẫn đến hợp đồng dân sự vô hiệu.

3. Thực trạng hợp đồng nhượng quyền thương mại vô hiệu và hậu quả pháp lý

3.1. Một số trường hợp hợp đồng nhượng quyền thương mại vô hiệu

Thứ nhất, hợp đồng NQTM vô hiệu do vi phạm điều kiện về hình thức, thực tiễn tranh chấp về các hợp đồng NQTM, các bên tham gia hoạt động NQTM có thể sử dụng các hình thức pháp lý tương đương văn bản theo khoản 5 Điều 15 Luật Thương mại mà không dẫn đến vô hiệu về hình thức hợp đồng. Tuy nhiên, hiện nay, hoạt động NQTM điện tử ngày càng phổ biến, nếu không có quy định cụ thể về xác thực điện tử sẽ dẫn đến phát sinh tranh chấp trong tương lai về cách hiểu “hình thức tương đương với văn bản là thông điệp dữ liệu”.

Thứ hai, hợp đồng NQTM vô hiệu do vi phạm điều kiện về chủ thể là vi phạm tương đối phổ biến trong giao dịch dân sự. Đặc biệt, trong thời gian gần đây, mô hình nhượng quyền xe đẩy cà phê ngày càng phổ biến[2]. Vì cá nhân muốn tham gia hợp đồng NQTM thì phải đăng ký kinh doanh để trở thành hộ kinh doanh. Tuy nhiên, theo Điều 86 Nghị định số 01/2021/NĐ-CP ngày 04/01/2021 của Chính phủ về đăng ký doanh nghiệp, địa điểm kinh doanh của hộ kinh doanh là nơi hộ kinh doanh thực hiện hoạt động kinh doanh. Vì vậy, các xe đẩy cà phê khó có thể bảo đảm điều kiện về chủ thể khi tham gia giao kết hợp đồng NQTM. Thực tiễn giải quyết tranh chấp cũng đã có nhiều trường hợp các bên tham gia giao kết hợp đồng nhưng không bảo đảm điều kiện về chủ thể.

Thứ ba, về điều kiện hoạt động NQTM, bên NQTM chỉ được phép nhượng quyền khi hệ thống kinh doanh dự định dùng để nhượng quyền đã hoạt động ít nhất một năm. Trường hợp không bảo đảm điều kiện trên là một trong những căn cứ dẫn đến hợp đồng NQTM vô hiệu tuyệt đối do vi phạm điều cấm của luật.

3.2. Hậu quả pháp lý của hợp đồng nhượng quyền thương mại vô hiệu

Hợp đồng NQTM có đối tượng hợp đồng là quyền thương mại. Theo Hiệp hội Nhượng quyền thương mại Nhật Bản, quyền thương mại là quyền sử dụng những dấu hiệu đại diện của bên nhượng quyền, bao gồm logo, nhãn hiệu dịch vụ, tên thương mại cũng như bí quyết kinh doanh của bên nhượng quyền để thực hiện hoạt động kinh doanh theo mô hình của bên nhượng quyền. Theo Nghị quyết số 4087/88 của Cộng đồng châu Âu (EC Commission Regulation No. 4087/88), quyền thương mại là tập hợp các quyền sở hữu công nghiệp và sở hữu trí tuệ liên quan đến nhãn hiệu, tên thương mại, biển hiệu cửa hàng, giải pháp hữu ích, kiểu dáng, bản quyền tác giả, bí quyết kinh doanh hoặc sáng chế được khai thác để bán sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ đến người sử dụng cuối cùng. Theo pháp luật Việt Nam, quyền thương mại là một nhóm quyền bao gồm quyền sử dụng tên thương mại, nhãn hiệu, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh… thuộc quyền sở hữu hoặc kiểm soát của bên nhượng quyền. Hiện nay, hậu quả pháp lý của hợp đồng NQTM vô hiệu cũng đặt ra nhiều vấn đề bất cập, cụ thể như sau:

Thứ nhất, về vấn đề “khôi phục lại tình trạng ban đầu”, trong trường hợp đối tượng hợp đồng là tài sản, nhưng tài sản không còn giữa được tình trạng ban đầu hoặc là công việc đã được thực hiện thì không thể áp dụng được việc “khôi phục lại tình trạng ban đầu”.

Trường hợp tài sản đã qua sử dụng: Đối với hợp đồng NQTM, bên nhượng quyền để bảo đảm việc thống nhất, đồng bộ trong toàn bộ hệ thống, bên nhượng quyền có thể buộc bên nhận quyền phải sử dụng tài sản của bên nhận quyền như bàn ghế, máy móc, vật dụng… Trường hợp này, sau khi tuyên bố hợp đồng vô hiệu, bên nhận quyền hoàn trả lại những tài sản trên đã qua sử dụng hay hoàn trả một khoản tiền tương đương sau khi khấu hao giá trị tài sản?

Trường hợp thực hiện công việc: Thực hiện hợp đồng NQTM, có hỗ trợ bên nhận quyền bằng cách đào tạo, hướng dẫn hoặc xây dựng quy trình cho bên nhận quyền. Đối tượng thực hiện hợp đồng liên quan đến giá trị nhân thân của các bên chủ thể nên việc hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận rất khó thực hiện. Thực tiễn, các bên trong hợp đồng NQTM có thể ký những hợp đồng khác như hợp đồng tư vấn, hợp đồng quản lý. Tuy nhiên, khi hợp đồng NQTM vô hiệu có dẫn đến các hợp đồng còn lại vô hiệu không? Nếu các hợp đồng tư vấn, hợp đồng quản lý là có tính độc lập về hiệu lực pháp lý đối với hợp đồng NQTM thì các bên có tiếp tục thực hiện hợp đồng không hay là các hợp đồng đó cũng sẽ vô hiệu do đối tượng hợp đồng không còn tồn tại nữa.

Thứ hai, xử lý hậu quả hợp đồng vô hiệu liên quan đối tượng hợp đồng NQTM là quyền sở hữu trí tuệ, bên cạnh nhãn hiệu, các đối tượng sở hữu công nghiệp như sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, bí mật kinh doanh có thể được nhượng quyền trong hoạt động NQTM. Tuy nhiên, đối với quyền thương mại là quyền sở hữu trí tuệ mà các bên có đăng ký bảo hộ sẽ đương nhiên được bảo hộ. Còn các quyền thương mại hoặc các yếu tố khác không được bảo hộ theo pháp luật sở hữu trí tuệ, khi hợp đồng NQTM bị vô hiệu, bên nhận quyền có bắt buộc chấm dứt sử dụng hay vẫn được tiếp tục sử dụng những quyền thương mại. Như vậy, ý nghĩa của việc xử lý hậu quả hợp đồng vô hiệu sẽ không được bảo đảm làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bên nhượng quyền.

Thứ ba, xử lý hậu quả hợp đồng vô hiệu liên quan bí mật kinh doanh, khoản 1 Điều 284 Luật Thương mại quy định bí quyết kinh doanh là một trong những đối tượng của hợp đồng NQTM. Luật Thương mại không định nghĩa như thế nào là bí quyết kinh doanh. Khoản 23 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung các năm 2009, 2019 và 2022) quy định, bí mật kinh doanh là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh. Khoản 1 Điều 2 Luật Chuyển giao công nghệ năm 2017 quy định, bí quyết là thông tin được tích lũy, khám phá trong quá trình nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh có ý nghĩa quyết định chất lượng, khả năng cạnh tranh của công nghệ, sản phẩm công nghệ; bí quyết bao gồm bí quyết kỹ thuật, bí quyết công nghệ. Như vậy, nội hàm khái niệm “bí quyết kinh doanh” có thể được hiểu như “bí mật kinh doanh” theo Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung các năm 2009, 2019 và 2022) và “bí quyết” theo Luật Chuyển giao công nghệ năm 2017 không? Việc không xác định chính xác các bí quyết kinh doanh có thể dẫn đến các phát sinh tranh chấp trong tương lai.

Ví dụ như: Vụ việc điển hình trong việc xác định bí quyết doanh là vụ việc giữa bên nhượng quyền là I Can’t Believe It’s Yogurt (sau đây gọi tắt là ICBIY) và bên nhận quyền là Gunn[3]. Bên nhượng quyền đã yêu cầu Tòa án ngăn cấm bên nhận quyền trước đây là Gunn tiếp tục mở cửa hàng và kinh doanh sản phẩm tương tự. Tuy nhiên, Tòa án đã nhận định toàn bộ các yếu tố của hệ thống kinh doanh như thủ tục kế toán, cách sử dụng máy chế biến, pha trộn yogurt, thủ tục đăng ký, phương thức quản lý hàng tồn kho, quản lý chi phí nhân sự, quản lý chất thải, tỷ lệ phần trăm lợi nhuận, ngân sách, phương thức phỏng vấn, tuyển dụng và gợi ý bán hàng của bên nhượng quyền là bí mật kinh doanh do ICBIY không chứng minh được những yếu tố trên là bí mật kinh doanh và những bí mật kinh doanh trên là phổ biến và dễ tiếp cận.

Nếu các bên có thỏa thuận quy định về trách nhiệm giữ bí mật kinh doanh hoặc bí quyết kinh doanh, trường hợp hợp đồng NQTM vô hiệu có dẫn đến thỏa thuận quy định giữ bí mật kinh doanh hoặc bí quyết kinh doanh có bị vô hiệu không và bên nhượng quyền có quyền tiếp tục sử dụng các bí quyết kinh doanh không? Trường hợp, không có quy định về thỏa thuận về giữa bí mật kinh doanh đối với các bí quyết kinh doanh, bên nhượng quyền có bị hạn chế sử dụng các bí quyết kinh doanh này trong hoạt động kinh doanh của mình không?

4. Kiến nghị

Hoạt động NQTM đã trở thành một trong những cách thức để thương nhân nước ngoài tiếp cận với thị trường Việt Nam, cũng như thương nhân Việt Nam tiếp cận với thị trường nước ngoài. Khác với quy định một số quốc gia khi xác định quan hệ NQTM là tổng hợp các quan hệ mua bán hàng hóa, cung ứng dịch, chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu hàng hóa, bí mật kinh doanh, sở hữu công nghiệp…, Luật Thương mại xác định quan hệ NQTM được thực hiện qua hợp đồng NQTM, trong đó có đối tượng thực hiện hợp đồng là quyền thương mại. Do quyền thương mại theo Luật Thương mại và Nghị định số 35/2006/NĐ-CP được quy định không thống nhất với với Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung các năm 2009, 2019 và 2022), Luật Chuyển giao công nghệ năm 2017, Luật Cạnh tranh năm 2018, Luật Quảng cáo năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2018); tính chất phức tạp của hợp đồng, những điểm giống nhau giữa hợp đồng hợp tác kinh doanh, hợp đồng NQTM, hợp đồng li-xăng đã dẫn đến sự bất cập khi xử lý hậu quả vô hiệu của hợp đồng. Do đó, cần xây dựng một khung pháp lý chi tiết đối với hoạt động NQTM hoặc lựa chọn các bản án, quyết định có chứa các lập luận, phán quyết liên quan đến việc xử lý hậu quả hợp đồng NQTM vô hiệu làm cơ sở để giải quyết các tranh chấp đang phát sinh và có thể sẽ phát sinh trong tương lai.

ThS. Nguyễn Đức Vũ

Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh

[1]. TS. Lê Minh Hùng, Hình thức hợp đồng, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, 2005, tr. 31.

[2]. https://plo.vn/bung-no-nhuong-quyen-thuong-hieu-ca-phe-0-dong-post544251.html.

[3]. Mark S. Vanderbroek - Christian B. Turner (2006), “Protecting and enforcing franchise trade secrets”, Franchise Law Journal, Volume 25, Number 4, p. 194.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 380), tháng 5/2023)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm