Thứ tư 18/06/2025 12:37
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Bàn về khái niệm quốc hữu hóa trong giai đoạn hiện nay

Khái niệm quốc hữu hóa không phải là khái niệm mới, trong thời gian gần đây, mức độ xuất hiện của thuật ngữ này ngày càng thường xuyên. Với bối cảnh kinh tế thế giới hiện nay, quốc hữu hóa được xem là một giải pháp mang tính cấp bách, không thể không tiến hành. Vậy quốc hữu hóa là gì? Bản chất của quốc hữu hóa là tích cực hay tiêu cực?

Khái niệm quốc hữu hóa không phải là khái niệm mới, trong thời gian gần đây, mức độ xuất hiện của thuật ngữ này ngày càng thường xuyên. Với bối cảnh kinh tế thế giới hiện nay, quốc hữu hóa được xem là một giải pháp mang tính cấp bách, không thể không tiến hành. Vậy quốc hữu hóa là gì? Bản chất của quốc hữu hóa là tích cực hay tiêu cực? Chỉ khi chúng ta hiểu và đánh giá đúng mức ý nghĩa cũng như hiệu quả của quốc hữu hóa những vấn đề trên mới được làm rõ.

1. Một số quan điểm về quốc hữu hóa

Hiện nay, xung quanh khái niệm quốc hữu hóa, tồn tại rất nhiều quan điểm và cách đánh giá khác nhau. Theo các học giả phương Tây, thuật ngữ "quốc hữu hóa" trong tiếng Anh tương đương với "Nationalization" hoặc trong tiếng Pháp là “Nationalisation”, là quốc gia hóa hay Nhà nước hóa. Tùy vào từng hoàn cảnh cụ thể, khái niệm quốc hữu hóa có thể được nhìn nhận như sau:

- Quốc hữu hóa được đồng nhất với Nhà nước hóa, quan điểm này đã từng rất phổ biến, do đó, trước đây khi được tiến hành với ý nghĩa này ở các nước xã hội chủ nghĩa, quốc hữu hóa mang bản chất của một biện pháp phi thị trường nhằm mục đích xóa bỏ sở hữu tư nhân trong nền kinh tế. Quốc hữu hóa được đa số người quan niệm là sự chuyển giao vô điều kiện, mang tính bắt buộc quyền sở hữu với các tư liệu sản xuất, những lực lượng kinh tế của tư nhân vào tay Nhà nước. Là chủ thể bao trùm lên mọi hoạt động, trong lĩnh vực kinh tế, Nhà nước tham gia hầu hết các khâu trong nền kinh tế quốc dân từ khâu tìm kiếm nguyên, nhiên, vật liệu cho đến sản xuất, phân phối và tiêu thụ sản phẩm, tìm kiếm thị trường, lập kế hoạch phát triển thị trường.... Trong hoàn cảnh ấy, sở hữu tư nhân gần như không tồn tại, đồng nghĩa với việc không có nền kinh tế thị trường và kết quả gặt hái được là một nền kinh tế quốc dân với sản xuất manh mún, công cụ lao động lạc hậu, trì trệ, kéo theo sự tụt hậu không chỉ về kinh tế mà cả văn hóa, xã hội. Từ đó, có thể khẳng định, cách hiểu quốc hữu hóa đồng nhất với Nhà nước hóa đã bộc lộ những điểm kém ưu việt. Nhất là khi, nó từng bước khống chế và kìm hãm sự phát triển của thành phần kinh tế tư nhân, đồng thời tiến tới triệt tiêu sở hữu tư nhân - một trong những yếu tố cơ bản để kinh tế thị trường vận hành, phát triển tốt. Quốc hữu hóa lúc này đóng vai trò là phương thức của Nhà nước nhằm thâu tóm về mình quyền sở hữu đối với những tư liệu sản xuất và các lực lượng kinh tế của tư nhân ở các lĩnh vực chủ chốt trong nền kinh tế quốc dân.

- Ở góc độ thứ hai, nội hàm khái niệm quốc hữu hóa bị thu hẹp lại, quốc hữu hóa được xem là một biện pháp can thiệp của Nhà nước, thể hiện vai trò điều tiết kinh tế của Nhà nước. Có thể coi, quốc hữu hóa trong trường hợp này là một biểu hiện cụ thể của Nhà nước hóa, nhưng mang bản chất và hướng tới một mục đích khác hẳn. Lúc này, quốc hữu hóa chỉ là một giải pháp nhằm cứu vãn sự tồn tại và hoạt động của một số ngành, lĩnh vực kinh tế đang lâm vào khủng hoảng hiện nay. Còn đại bộ phận các ngành, lĩnh vực khác trong nền kinh tế quốc dân vẫn hoạt động bình thường, sở hữu tư nhân vẫn duy trì sự tồn tại và vai trò của nó bên cạnh sở hữu Nhà nước. Kinh tế tư nhân vẫn có chỗ đứng và được Nhà nước tạo điều kiện hỗ trợ và khuyến khích phát triển vì mục tiêu chung là xây dựng và củng cố nền kinh tế quốc dân. Nói cách khác, so với trước đây, phạm vi của quốc hữu hóa ở giai đoạn này đã thu hẹp hơn, nó vừa mang tính Nhà nước, vừa mang tính xã hội bởi mục tiêu mà quá trình này hướng đến là lợi ích chung của một số đông trong xã hội và rộng hơn là toàn thể đất nước, toàn thể người dân trong xã hội.

Nhiều người lo ngại xu hướng quốc hữu hóa đang đi ngược lại xu hướng xã hội hóa và trong một tương lai không xa, xu hướng quốc hữu hóa sẽ phá vỡ những thành quả mà công cuộc xã hội hóa đã đạt được từ trước đến giờ. Nhưng ý kiến khác lại quan niệm, quốc hữu hóa, đơn giản chỉ là một khâu trong quá trình xã hội hóa về mặt kinh tế và quốc hữu hóa có thể thực hiện đồng thời với hoạt động xã hội hóa ở các lĩnh vực khác như chính trị, văn hóa - nghệ thuật, giáo dục... Vì khác với trước đây, quốc hữu hóa lúc này đã có sự thay đổi căn bản về mục tiêu, phạm vi và định hướng. Quá trình này không những không gây ảnh hưởng xấu, mà còn tạo điều kiện thúc đẩy quá trình xã hội hóa tiến hành thuận lợi hơn, bởi ở một số ngành, lĩnh vực kinh tế, Nhà nước vẫn tạo điều kiện cho toàn xã hội tham gia quản lý, điều hành chung với mình, thậm chí, Nhà nước còn hỗ trợ kinh phí cho một số tổ chức xã hội hoạt động mà không đòi hỏi bất cứ điều kiện nào. Dưới góc độ này, thuật ngữ quốc hữu hóa đơn giản được hiểu là xã hội hóa các tư liệu sản xuất, các lực lượng kinh tế của tư nhân ở những lĩnh vực chủ đạo của nền kinh tế quốc dâ, tức là sự chuyển giao quyền sở hữu, quản lý đối với các tư liệu sản xuất và các lực lượng kinh tế cơ bản của tư nhân vào tay Nhà nước, vào tay toàn thể xã hội, toàn thể nhân dân.

Ngoài những cách hiểu trên, một số người vẫn quan niệm rằng, xã hội hóa là biến thành của chung và đồng nhất khái niệm quốc hữu hóa với khái niệm xã hội hóa, cách hiểu này đã dẫn đến những quan điểm không đúng về quốc hữu hóa. Về bản chất, xã hội hóa trong lĩnh vực kinh tế chính là biểu hiện của quốc hữu hóa, nhưng quốc hữu hóa không đơn giản là xã hội hóa. Chỉ cần xét tới một khía cạnh, quốc hữu hóa được tiến hành bởi Nhà nước, và đôi khi, trong những trường hợp bắt buộc, Nhà nước phải thực hiện bằng cưỡng chế, sau khi tiến hành quốc hữu hóa, quyền quản lý, chiếm hữu, sử dụng hay định đoạt với khối tài sản tư nhân đã được quốc hữu hóa sẽ thuộc về Nhà nước và đối tượng quốc hữu hóa hướng tới đó là các tư liệu sản xuất, lực lượng kinh tế của tư nhân, ở những lĩnh vực chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Như vậy, so với quốc hữu hóa, đối tượng mà xã hội hóa hướng tới có phạm vi rộng hơn rất nhiều, trừ những lĩnh vực chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, những ngành, lĩnh vực còn lại, không phải đối tượng của quốc hữu hóa. Mặt khác, chủ thể thực hiện quốc hữu hóa chỉ có Nhà nước, trong khi chủ thể thực hiện xã hội hóa đa dạng hơn rất nhiều, có thể là các tổ chức xã hội, đoàn thể, nhân dân, thuộc mọi tầng lớp, giai cấp... Biện pháp tiến hành xã hội hóa không mang tính cưỡng chế Nhà nước.

Từ những lý do trên, không thể khẳng định hai khái niệm quốc hữu hóa và xã hội hóa là một như quan niệm của một số người. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, quốc hữu hóa được thực hiện bằng con đường xã hội hóa. Trên thực tế, hình thức “công tư hợp doanh” đã xuất hiện trong nền kinh tế thị trường và ngày càng phổ biến. Đó chính là biểu hiện của xu hướng xã hội hóa trong lĩnh vực kinh tế không chỉ ở các nước xã hội chủ nghĩa, mà ngay cả các nước tư bản cũng đang tiến hành. Ngày nay, quan điểm ranh giới giữa sở hữu Nhà nước và sở hữu của toàn dân, sở hữu của toàn thể xã hội đã trở nên lu mờ, dường như đang có xu hướng sáp nhập sở hữu nhà nước và sở hữu toàn xã hội làm một. Trong trường hợp ấy, xã hội hóa trong lĩnh vực kinh tế chính là biểu hiện của quốc hữu hóa trong giai đoạn hiện nay.

2. Quan điểm về quốc hữu hóa ở Việt Nam hiện nay

Trước đây, khái niệm quốc hữu hóa ở nước ta cũng được đồng nhất với khái niệm Nhà nước hóa, song hiện nay, khái niệm này đã có sự thay đổi căn bản. Theo từ điển Bách khoa, quốc hữu hóa được xem là việc chuyển quyền sở hữu vào tay Nhà nước những tư liệu sản xuất chủ yếu, những lực lượng kinh tế của tư nhân ở những vị trí chủ đạo của nền kinh tế quốc dân"[1]. Thay vì được tiến hành trên hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế, giờ đây, biện pháp này chỉ được tiến hành ở một số lĩnh vực chủ đạo. Nói cách khác, theo quan điểm của Nhà nước ta hiện nay, quốc hữu hóa không đồng nhất hoàn toàn với khái niệm Nhà nước hóa nữa. Tuy vậy, về bản chất, nó chính là một phần của khái niệm Nhà nước hóa. Vì trên thực tế, quốc hữu hóa hiện nay thực chất là Nhà nước hóa đối với các tư liệu sản xuất và lực lượng kinh tế của tư nhân ở những ngành, lĩnh vực kinh tế chủ đạo của nền kinh tế quốc dân, hay nói cách khác, nó chính là phạm vi hẹp của Nhà nước hóa.

Quốc hữu hóa ở Việt Nam được tiến hành một cách đồng thời với quá trình xã hội hóa trong lĩnh vực kinh tế. Song ở một quốc gia phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa như nước ta, khái niệm xã hội hóa không hoàn toàn đồng nhất với khái niệm "Socialization"[2] của các quốc gia phương Tây. Nếu hiểu theo nghĩa mà các quốc gia phương Tây quan niệm, thì xã hội hóa là thuật ngữ được sử dụng trong xã hội học để chỉ quá trình con người sinh vật chuyển thành con người xã hội. Trong đó, xã hội hóa được xác định là quá trình tương tác giữa cá nhân và xã hội để cá nhân học hỏi, thực hành những tri thức, kỹ năng và những phương pháp cần thiết để hội nhập vào xã hội. Quá trình này khởi đầu từ khi con người xuất hiện và sẽ tiếp tục diễn ra khi nào con người vẫn sống thành cộng đồng xã hội và là tổng hòa của các mối quan hệ xã hội. Tuy nhiên, thuật ngữ này khi được áp dụng ở nước ta đã có sự biến đổi, khái niệm xã hội hóa được dùng ở nước ta hiện nay gần với nghĩa của công - tư hợp tác (viết tắt là PPP) hay nói cách khác, giống như khái niệm Nhà nước và nhân dân cùng làm. Khái niệm xã hội hóa khi được dùng ở Việt Nam, nếu căn cứ trên cơ sở Nghị quyết số 90/CP ngày 21/8/1997 của Chính phủ về phương hướng và chủ trương xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá và Nghị định số 73/1999/NĐ-CP ngày 19/8/1999 của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao, sẽ khiến cho người dân Việt Nam hiểu là sự vận động và tổ chức sự tham gia rộng rãi của nhân dân và của toàn xã hội vào sự phát triển các sự nghiệp mà Nhà nước đang xây dựng. Đồng thời, xây dựng tinh thần trách nhiệm cộng đồng của các tầng lớp nhân dân đối với việc tạo lập và cải thiện môi trường kinh tế, xã hội lành mạnh và thuận lợi cho các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa. Xã hội hóa góp phần mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác các tiềm năng về nhân lực, vật lực và tài lực trong xã hội. Phát huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nhân dân, tạo điều kiện cho các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa phát triển nhanh hơn, có chất lượng cao hơn là chính sách lâu dài, là phương châm thực hiện chính sách xã hội, không phải là biện pháp tạm thời, chỉ có ý nghĩa tình thế trước mắt do Nhà nước thiếu kinh phí cho các hoạt động này. Đại bộ phân nhân dân Việt Nam khi nhắc về xã hội hóa đều cho rằng, đó là việc nhân dân đóng góp thêm nguồn lực cho các hoạt động đó (chẳng hạn đóng góp tiền dưới dạng trả các loại phí dịch vụ; bỏ tiền, công sức ra cung ứng các dịch vụ đó, như lập trường tư, bệnh viện tư, phòng khám tư, nhà hát tư, tức là bỏ vốn đầu tư…). Cách hiểu trên của người dân tương đối đơn giản, vẫn chưa đầy đủ ý nghĩa của công cuộc xã hội hóa mà Nhà nước ta muốn đạt được.

Trên cơ sở những phân tích đã trình bày trên đây, có thể thấy: Thứ nhất, khái niệm quốc hữu hóa theo quan điểm của nước ta không tương đồng với khái niệm quốc hữu hóa theo quan điểm của phương Tây; thứ hai, khái niệm xã hội hóa của nước ta cũng không tương ứng với khái niệm xã hội hóa theo quan điểm của các quốc gia phương Tây, mà tương ứng với khái niệm Nhà nước và nhân dân cùng làm hay "công - tư hợp tác". Xu hướng quốc hữu hóa hiện nay ở nước ta chính là một biểu hiện của quá trình xã hội hóa trong lĩnh vực kinh tế. Suy cho cùng, bản thân khái niệm quốc hữu hóa, bên cạnh việc mang những đặc điểm của Nhà nước hóa còn mang thêm những đặc trưng của xã hội hóa. Chính vì thế, khái niệm quốc hữu hóa, xét về mặt ngoại diên thì hẹp hơn so với khái niệm xã hội hóa, nhưng về mặt nội hàm, thì quốc hữu hóa cụ thể và sâu hơn so với xã hội hóa. Nói về quốc hữu hóa, không thể không nhắc đến xã hội hóa, song nhắc tới xã hội hóa, không thể không đề cập đến quốc hữu hóa. Mặc dù vậy, hai khái niệm này không thể nhập làm một được.

Ở nước ta hiện nay, với mục tiêu theo đuổi một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quốc hữu hóa còn có ý nghĩa xác lập sở hữu nhà nước trong các ngành, các lĩnh vực kinh tế chủ chốt, tạo cơ sở kinh tế - xã hội để củng cố Nhà nước, cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là cơ sở cho việc chống độc quyền hữu hiệu, từ sở hữu của một nhóm nhỏ trong xã hội, chuyển thành sở hữu chung của Nhà nước - đại diện cho quyền lợi của toàn xã hội, vì bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Sự quản lý của Nhà nước đối với khối tài sản bao gồm tư liệu sản xuất và những lực lượng kinh tế thuộc những ngành nghề chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân tạo điều kiện hạn chế những ảnh hưởng không tốt tới các ngành, lĩnh vực khác trong nền kinh tế, duy trì sự phát triển ổn định của nền kinh tế thị trường. Mặt khác, xóa bỏ sự độc chiếm thị trường bởi các nhóm nhỏ với mục đích riêng, đi ngược lại lợi ích chung của toàn xã hội, bởi lúc này, mục tiêu, kế hoạch hoạt động, định hướng phát triển của cách ngành, lĩnh vực chủ đạo đó hoàn toàn do Nhà nước vạch ra và đảm bảo thực hiện.

Có thể nói, sở dĩ quốc hữu hóa không phát huy được hiệu quả vốn có của nó xuất phát từ chỗ chúng ta hiểu chưa đúng về khái niệm, bản chất và đánh giá được tầm quan trọng của nó. Tính đến thời điểm này, vẫn chưa có một văn bản có tính pháp lý nào đưa ra một định nghĩa, hay khái niệm chính xác và tổng quát nhất về quốc hữu hóa. Thậm chí ngay cả Hiến pháp năm 2013 cũng chỉ đề cập một cách khái quát về quốc hữu hóa trong Chương II - Quyền con người, quyền và các nghĩa vụ cơ bản của công dân. Nên chăng, Đảng và Nhà nước ta cần nghiên cứu và đưa ra một khái niệm cụ thể về quốc hữu hóa để giúp nhân dân dễ hình dung, từ đó có một cái nhìn đúng đắn về vai trò, tính cần thiết của hoạt động quốc hữu hóa do Nhà nước tiến hành. Điều này sẽ góp phần hoàn thiện hơn nữa nội dung cơ bản của Hiến pháp, đồng thời xóa bỏ những góc nhìn hạn hẹp và chưa đúng về bản chất, khái niệm quốc hữu hóa vốn có trước đó trong xã hội.

Trịnh Phương Thảo
Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Khi thực hiện sắp xếp các đơn vị hành chính và thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp, việc đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động của chính quyền địa phương nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, thích ứng với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới là điều cần thiết. Các địa phương sau sắp xếp đứng trước những yêu cầu cấp thiết về đổi mới, vận hành hiệu quả mô hình tổ chức chính quyền địa phương. Bài viết đề xuất một số kiến nghị để tiếp tục đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động chính quyền địa phương, góp phần bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của nền công vụ trong bối cảnh mới.
Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 194/2025/QH15 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo cơ sở pháp lý thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Bài viết nghiên cứu, phân tích về những nội dung cần bổ sung vào chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để thực hiện việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đang lấy ý kiến nhân dân để thực hiện các chủ trương của Đảng về việc sắp xếp lại chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, không tổ chức cấp huyện. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi bộ máy hành chính phải được tổ chức khoa học, tinh, gọn, minh bạch, hiệu quả nhằm tạo đà cho đất nước phát triển càng trở lên cấp thiết. Xuất phát từ thực trạng tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã và đòi hỏi của thực tiễn, bài viết đề xuất một số gợi mở về đổi mới tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã trong thời gian tới.
Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội như hiện nay, việc tổ chức lại bộ máy chính quyền theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (dự thảo Nghị quyết) là yêu cầu tất yếu. Điều này đòi hỏi phải cải cách toàn diện cả về cấu trúc chiều ngang (sáp nhập địa giới hành chính) và chiều dọc (rút gọn cấp chính quyền trung gian) nhằm mở rộng không gian phát triển, tăng cường tính liên kết giữa trung ương và cơ sở, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân. Bài viết nghiên cứu mô hình tổ chức chính quyền địa phương gắn với địa bàn cụ thể dưới góc nhìn từ cơ sở (Tây Nguyên) để đưa ra những phân tích, nhận định và đề xuất giải pháp cho việc cải cách chính quyền địa phương theo dự thảo Nghị quyết.
So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

Bài viết phân tích, nghiên cứu thiết chế chính quyền địa phương ở Cộng hòa Pháp và Việt Nam; so sánh một số điểm tương đồng, khác biệt về tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương theo hiến pháp của hai nước. Trên cơ sở mô hình tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương của Cộng hòa Pháp, bài viết đề xuất một số kiến nghị để Việt Nam nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cuộc “cách mạng” về tinh gọn bộ máy theo các chủ trương, chính sách của Đảng và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.
Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử. Trên cơ sở nhận diện những khó khăn, vướng mắc, bài viết đề xuất các khuyến nghị để xây dựng khung pháp lý toàn diện, hiệu quả hơn trong việc tích hợp trí tuệ nhân tạo vào công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời gian tới.

Trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bài viết phân tích, đánh giá một số khía cạnh pháp lý, kinh tế của chế độ trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện về chế độ trách nhiệm hữu hạn trong pháp luật doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam.

Hoàn thiện quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dùng vào việc thờ cúng

Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng qua các thời kỳ và thực tiễn áp dụng pháp luật qua công tác xét xử của Tòa án đối với tranh chấp liên quan đến chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng, từ đó, đưa ra một số gợi mở nhằm hoàn thiện chế định này.
Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Sau hơn 11 năm triển khai thi hành, Hiến pháp năm 2013 đã tạo cơ sở hiến định quan trọng cho việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Bên cạnh những kết quả đạt được, hiện nay, việc thực hiện các quy định của Hiến pháp và pháp luật liên quan đến Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và chính quyền địa phương vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện nhằm để đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Ủy ban Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 ban hành Kế hoạch tổ chức lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Việc lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết nhằm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, huy động trí tuệ, tâm huyết và tạo sự đồng thuận, thống nhất cao của toàn dân trong việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013, bảo đảm Hiến pháp phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của Nhân dân.
Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013 là một sự kiện chính trị và pháp lý trọng đại, dù ở phạm vi, quy mô nào cũng là một công việc rất hệ trọng, thiêng liêng. Do vậy, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp phải được tiến hành thận trọng, khách quan, dân chủ, khoa học, hiệu quả với sự tham gia tích cực, đồng bộ của các cơ quan, tổ chức, các chuyên gia, nhà khoa học và toàn thể Nhân dân theo đúng chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính  – bổ sung nhiều quy định mới

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính – bổ sung nhiều quy định mới

Trên cơ sở phát biểu đề dẫn của đồng chí Trương Thế Côn, Tổng Biên tập Tạp chí Dân chủ và pháp luật, phát biểu của đồng chí Hồ Quang Huy, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính về sự cần thiết, quá trình soạn thảo và định hướng xây dựng Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm pháp luật hành chính, Hội thảo khoa học “Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi pham hành chính” đã tiếp nhận được gần 20 ý kiến phát biểu và hơn 10 bài nghiên cứu chuyên sâu. Các bài viết và ý kiến phát biểu tại Hội thảo sẽ được Tạp chí Dân chủ và Pháp luật và Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính tổng hợp, xem xét để gửi tới cá nhân, cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong quá trình xây dựng, quyết định chính sách.
Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp.
Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp  nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV khai mạc sáng ngày 05/5/2025. Đây là Kỳ họp có nhiều nội dung quan trọng, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII - Hội nghị lịch sử, bàn về những quyết sách lịch sử trong giai đoạn Cách mạng mới của nước ta, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm