Thứ bảy 21/06/2025 15:44
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Bàn về sự tương thích giữa pháp luật và thực tiễn phân cấp quản lý kinh tế tại Việt Nam

Hoạt động giám sát ngân sách nhà nước là việc xem xét, đánh giá các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc thực hiện các quy định của Hiến pháp, pháp luật về tài chính - ngân sách trong toàn bộ các khâu của chu trình ngân sách. Điều này góp phần làm tăng sự minh bạch và hiệu quả trong quản lý ngân sách nhà nước, hơn nữa còn làm tăng lòng tin của người dân với cơ quan đại diện của nhân dân và với Nhà nước.

Tóm tắt: Trên cơ sở nghiên cứu, xác định mức độ phân chia quyền lực giữa trung ương và địa phương, bài viết liên hệ đến phân cấp, phân quyền tại Việt Nam và đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.

Abstract: On the basis of research and determination of the degree of power pision between the central and local governments, the article relates to decentralization and power devolution in Vietnam and makes some recommendations to improve the law on this issue.

1. Các mức độ phân chia quyền lực giữa trung ương và địa phương
Khi đề cập đến sự phân chia quyền lực giữa trung ương và địa phương nói chung cũng như trong quản lý kinh tế nói riêng, có khá nhiều quan điểm bàn về các mức độ phân chia này. Có thể tóm tắt một số quan điểm của các học giả trong nước như sau:
- Mức độ phân chia quyền lực trung ương và địa phương là biểu thị mức độ phát triển của yếu tố dân chủ từ thấp đến cao trong tổ chức quản lý theo lãnh thổ là: “Tập quyền, tản quyền, phân cấp quản lý, phân quyền, tự quản địa phương. Cũng có thể nói tự quản địa phương là hình thức phân cấp quản lý triệt để nhất”[1].
- Phân cấp hành chính bao gồm ba nhóm là: Phi tập trung (deconcentralization), ủy quyền (delegation) và phân quyền (devolution). Trong đó, “phân quyền là cấp độ phân cấp hành chính cao nhất...”[2].
- Quá trình phân cấp quản lý nhà nước về kinh tế có thể bao gồm các hình thức như: Tản quyền/ủy thác nhiệm vụ, ủy quyền và phân quyền[3]. Cùng quan điểm này, tuy thứ tự liệt kê có khác nhau nhưng một tác giả khác cho rằng: “Có ba thể loại về phân cấp hành chính là tản quyền, phân quyền và ủy quyền”[4].
- Tập trung hóa bao gồm tập quyền và tản quyền, còn phân quyền chính là phi tập trung hóa[5]. Khi nói về mức độ tự do trong việc ra quyết định tăng dần của tự quản địa phương, tác giả này cũng cho rằng có bốn cấp độ, gồm: Tự quản, tự chủ, tự quyết và tự trị.
Đối với các học giả nước ngoài, mỗi phát biểu sau được nghiên cứu về một khía cạnh của vấn đề. Theo đó:
- Phân cấp thường được chia nhỏ thành ba quy trình khác nhau nhưng có liên quan với nhau, đó là: Giảm tập trung (deconcentration), ủy quyền (delegation) và phân quyền (devolution). Các loại phân cấp (deconcentration) sau đó được phân thành ba loại là: Phân cấp chính trị (political decentralization), phân cấp hành chính (administrative decentralization) và phân cấp tài khóa (fiscal decentralization)[6].
- Phân cấp có thể được phân thành bốn loại là: Giảm tập trung, ủy quyền, phân quyền và tư nhân hóa. “Một số Chính phủ đã sử dụng cả bốn loại, đồng thời hoặc vào các thời điểm khác nhau. Một số bắt đầu với một cách tiếp cận và sau đó chuyển sang cách tiếp cận khác sau khi đánh giá kết quả ban đầu. Các Chính phủ khác đã sử dụng kết hợp cả bốn loại khác nhau”[7].
- “Phân cấp quản lý có thể được phân loại thêm thành giảm tập trung, ủy quyền và phân quyền”. Trong đó, “giảm tập trung cũng có thể được gọi là phân cấp hành chính”[8].
Đến đây, ta thấy quan điểm về phân cấp với các hình thức (hay các loại), các cấp độ phân cấp rất đa dạng và khó hình dung.
2. Nhận xét về các mức độ phân chia quyền lực giữa trung ương - địa phương và liên hệ đến phân cấp, phân quyền tại Việt Nam
Qua việc tổng hợp của tác giả, có thể nhận xét rằng:
- Phân cấp có năm mức độ phân chia quyền lực giữa trung ương và địa phương, từ thấp đến cao là: Tập quyền, tản quyền, phân cấp quản lý, phân quyền và tự quản địa phương. Trong đó, tập quyền và tản quyền là hai cấp độ biểu hiện quyền lực tập trung (hay “tập trung hóa”), còn phân quyền là biểu hiện quyền lực phi tập trung (hay “phi tập trung hóa”). Việt Nam đang ở mức thứ ba là phân cấp quản lý.
- Ở mức thứ ba, phân cấp quản lý có bốn cấp độ theo thứ tự tăng dần là: Giảm tập trung (tản quyền), ủy quyền, phân quyền và tư nhân hóa. Do vậy, cần phân biệt được “phân quyền” trong cấp độ này với “phân quyền” trong các mức độ phân chia quyền lực giữa trung ương và địa phương.
- Ở mức thứ tư, phân quyền có ba cấp độ tăng dần là: Giảm tập trung, chuyển giao quyền lực và ủy quyền. Do vậy, khi sử dụng thuật ngữ “ủy quyền” tại Việt Nam, ta hiểu đó là cấp độ thứ hai trong phân cấp quản lý (tức là ủy quyền trong phân cấp quản lý) chứ không phải cấp độ cao nhất trong phân quyền.
- Ở mức thứ năm - tự quản địa phương - mức cao nhất của sự phân chia quyền lực, có bốn mức độ tự do trong việc ra quyết định theo hướng tăng dần là: Tự quản, tự chủ, tự quyết và tự trị. Vì thế, cũng là tự quản địa phương nhưng tùy vào mức độ được trao quyền và tùy vào quốc gia/vùng lãnh thổ mà quyền tự do của các chính quyền tự quản ở đó khác nhau.
Trong số những nhận xét này, điểm đáng lưu ý nhất là chúng ta đang ở mức độ phân chia quyền lực thứ ba. Đây được xem là “một nấc thang”[9] trung gian giữa hai thái cực tập trung hóa và phi tập trung hóa, đang hướng đến phân quyền nhưng vẫn bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ. Nguyên tắc này được chủ trương từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI[10] cho đến nay vẫn chưa thay đổi. Nghị quyết mới nhất của Đại hội Đảng[11] vẫn xem phân cấp, phân quyền là chính sách hàng đầu cần phải quan tâm. Do vậy, vấn đề “đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu quả, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực bằng hệ thống pháp luật” thuộc đột phá chiến lược thứ nhất trong ba đột phá chiến lược phát triển đất nước được đặt ra tại Nghị quyết này.
Theo phân tích trên, tác giả cho rằng, “phân quyền” trong chủ trương của Đảng cần được hiểu đây là cấp độ cao nhất của phân cấp quản lý (phân quyền trong phân cấp quản lý), không phải phân quyền trong các mức độ phân chia quyền lực trung ương cho địa phương, tức là không phải ở mức phân quyền tiệm cận với tự quản địa phương. Do vậy, Hiến pháp năm 2013 cũng như các văn bản pháp luật hiện hành cần làm sáng tỏ vấn đề này để có sự tương thích giữa quy định của pháp luật với thực tiễn thi hành. Bởi lẽ, nếu không làm sáng tỏ vấn đề này thì “giới phân tích” có quyền đánh giá rằng, đây là một kiểu phân quyền không triệt để, hay là phân quyền hình thức.
Chẳng hạn, các quy định sau đây dù phù hợp với Việt Nam nhưng không phù hợp với bản chất của phân quyền:
Một là, quy định chức danh Chủ tịch Ủy ban nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu và Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp trên phê chuẩn (đối với cấp tỉnh thì do Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn)[12]. Quy định này phù hợp với Việt Nam hiện nay vì chúng ta chưa thể tự chủ đến mức địa phương có toàn quyền quyết định về nhân sự trong đơn vị hành chính của mình. Trong khoa học pháp lý cũng có nhiều ý kiến đề xuất pháp luật nên thay đổi theo hướng chức danh Chủ tịch Ủy ban nhân dân do cử tri bầu ra và không cần sự phê chuẩn của cấp trên.
Hai là, quy định “cơ quan nhà nước cấp trên trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thanh tra, kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp trong việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được phân quyền cho các cấp chính quyền địa phương”[13]. Tác giả cho rằng, quy định này cũng hợp lý vì việc thanh tra, kiểm tra của cấp trên trong trường hợp này là rất quan trọng. Câu từ của Luật cũng đã rất cẩn trọng khi quy định cấp trên “trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình” và phạm vi thanh tra, kiểm tra chỉ là “tính hợp hiến, hợp pháp”.
Như vậy, có thể nói, cả hai quy định trên đều phù hợp với Việt Nam trong giai đoạn phân cấp quản lý như hiện nay. Thế nhưng, nếu hiểu chúng ta đang trong giai đoạn phân quyền thì quy định trên trở nên bất cập. Bởi lẽ, đúng bản chất của phân quyền thì trách nhiệm của các “quan chức” dân cử được đề cao. Khi quyền ra quyết định được trao cho địa phương thì cơ quan hành chính phải giải trình trước cơ quan dân cử, còn “các quan chức dân cử sẽ chịu trách nhiệm giải trình trước cử tri chứ không phải là trước chính quyền các cấp cao hơn”[14].
Tuy nhiên, cũng cần nói thêm rằng, sự phù hợp ở đây không có nghĩa là pháp luật về phân cấp quản lý không cần thay đổi, hoàn thiện hay bổ sung. Bởi lẽ, Việt Nam không thể là trường hợp ngoại lệ về quản trị theo xu hướng phân quyền hiện nay trên thế giới. Chúng ta phải từng bước tiến tới giai đoạn thứ tư - giai đoạn phân quyền (phi tập trung) nên phải cải cách để sớm đạt cấp độ cao nhất trong phân cấp quản lý.
3. Kiến nghị
Từ những phân tích trên, tác giả cho rằng, Việt Nam đã vượt qua giai đoạn tập quyền và tản quyền, đang thúc đẩy phân cấp quản lý. Mặc dù Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận thuật ngữ “phân quyền” nhưng đây chưa phải là cấp độ phân cấp thứ tư (phi tập trung) mà đang còn là “phân quyền” trong “phân cấp quản lý”. Xu hướng quốc tế hiện đại là các quốc gia trao quyền tự quản cho chính quyền địa phương. Do vậy, Việt Nam cần thúc đẩy phân quyền và tịnh tiến dần đến tự quản địa phương để bắt kịp với sự phát triển của xã hội đương đại.
Tuy nhiên, cần phải xác định rằng, hiện tại, chúng ta vẫn đang còn là “phân cấp quản lý”. Từ “phân quyền” đang được sử dụng trong Hiến pháp và pháp luật nước ta dễ gây sự nhầm lẫn với cấp độ phân quyền thứ tư (phi tập trung). Vì lẽ đó, các nhà làm luật cần phải thể hiện rõ ý đồ của mình thông qua các quy phạm liên quan đến phân cấp, phân quyền. Không nên sử dụng thuật ngữ chuyên môn “phân cấp, phân quyền” như hiện nay mà không giải thích trong đạo luật. Điều này là không phù hợp với Nghị quyết số 351/2017/UBTVQH14 ngày 14/3/2017 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, theo đó, “trong văn bản có từ ngữ chuyên môn cần phải làm rõ nội dung thì từ ngữ đó phải được giải thích” (khoản 3 Điều 18).
Nghiên cứu về vị trí thứ bậc các mức độ phân chia quyền lực giữa trung ương và địa phương và các hình thức phân cấp, phân quyền, tác giả kiến nghị cần phải định hình và chọn một trong hai hướng đi sau:
Một là, nếu xác định Việt Nam đang trong giai đoạn “phân cấp quản lý” thì Luật Tổ chức chính quyền địa phương hiện hành cần cơ cấu thêm điều luật giải thích từ ngữ để làm sáng tỏ các thuật ngữ chuyên môn, trong đó có từ “phân cấp”, “phân quyền”. Bên cạnh đó, cần bổ sung các quy phạm pháp luật về mục tiêu, quan điểm, nguyên tắc phân cấp quản lý; hệ thống các ngành, lĩnh vực phân cấp; các chủ thể phân cấp và được phân cấp; quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của các chủ thể…, để sớm đạt cấp độ cao nhất trong phân cấp quản lý. Nếu không sửa đổi Luật Tổ chức Chính phủ hiện hành và Luật Tổ chức chính quyền địa phương hiện hành thì một đạo luật phân cấp ra đời trong lúc này cũng là một giải pháp. Điều này nhằm làm rõ chúng ta đang “phân quyền” trong “phân cấp quản lý” nên việc tồn tại các quy định liên quan đến cơ chế phân cấp quản lý tập trung dân chủ như hiện nay là phù hợp, đồng thời thể hiện sự phân cấp từng bước của quản lý nhà nước, vì rõ ràng chúng ta chưa thật sự “chín” với “phân cấp quản lý” thì chưa thể vội bước sang giai đoạn “phân quyền” - mức độ thứ tư của phân chia quyền lực. Theo hướng này, từ “phân quyền” cần được sử dụng rõ nghĩa hơn (như phân tích nêu trên) trong các chủ trương, chính sách của Đảng cũng như pháp luật của Nhà nước.
Hai là, nếu xác định chúng ta đã vượt qua giai đoạn “phân cấp quản lý” và đang ở mức độ “phân quyền” (phi tập trung) thì còn nhiều vấn đề cần bàn về “pháp luật phân quyền ở Việt Nam”. Bởi lẽ, hệ thống pháp luật trong lĩnh vực này còn quá mỏng, chưa thể thực thi chính sách này ngay trong hiện tại. Các giải pháp đề xuất cho hướng đi này không được đề cập trong phạm vi bài viết, nhưng có lẽ sự thay đổi cơ chế quản lý đối với chính quyền địa phương là một trong những vấn đề cần nhất. Đơn cử trong số đó có việc hình thành chức danh lãnh đạo hành chính địa phương. Theo đó, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp do Hội đồng nhân dân hoặc do cử tri địa phương bầu ra mà không cần sự phê chuẩn của cấp trên. Một thực tế cần thừa nhận rằng, bước đi này là quá sớm và có thể nói là chưa thể thực thi được trong giai đoạn hiện nay.
Thiết nghĩ, trong xu thế phát triển chung của thế giới cũng như diễn biến phức tạp của tình hình dịch bệnh, cần chú trọng việc kiện toàn hệ thống pháp luật nhằm cải cách, nâng cấp (chứ không chỉ đơn thuần là “thúc đẩy”) phân cấp quản lý để quá trình này thực sự chín muồi trước khi chuyển sang giai đoạn phân quyền. Song song đó, cần chú trọng công tác lập pháp sao cho hai quá trình này tương thích với nhau.

ThS. Trần Thị Mai Phước
Khoa Luật, Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh



[1]. Nguyễn Cửu Việt, Trương Đắc Linh, 2011, “Sửa đổi Hiến pháp: Nhìn từ chiến lược phân cấp quản lý”, Tạp chí Khoa học pháp lý, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, số 3/2011.
[2]. Vũ Thành Tự Anh, 2012, Phân cấp quản lý kinh tế ở Việt Nam nhìn từ góc độ thể chế, Kỷ yếu Diễn đàn Kinh tế mùa Thu - Kinh tế Việt Nam 2012, triển vọng 2013: Đổi mới phân cấp trong cải cách thể chế.
[3]. Lê Xuân Bá, 2012, Phân cấp kinh tế tại Việt Nam: Cơ sở lý luận, thực trạng và giải pháp, Kỷ yếu Diễn đàn Kinh tế mùa Thu - Kinh tế Việt Nam 2012, triển vọng 2013: Đổi mới phân cấp trong cải cách thể chế.
[4]. Nguyễn Đăng Dung, 2010, Các hình thức phân cấp, phân quyền, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học 26 (2010) 207-213, tr. 209.
[5]. Bùi Đức Kháng, 2006, Phân cấp quản lý trong hệ thống hành chính nhà nước của chính quyền địa phương, Nxb. Tư pháp, tr. 30.
[6]. Stacey White, 2011, Government decentralization in the 21st century, A report of the CSIS program on crisis, conflicts, and cooperation, Washington, DC: Centre for Strategic and International Studies, tr. 2.
[7]. Dennis A.Rondinelli, John R. Nellis & G. Shabbir Cheema, 1983, Decentralization in developing countries, tr. 14.
[8]. Alex Brillantes JR, 2004, “Decentralization imperatives: Lessons from some Asian countries”, Journal of International Cooperation Studies, 12(1), tr. 4.
[9]. Từ dùng của Bùi Đức Kháng, 2006, Phân cấp quản lý trong hệ thống hành chính nhà nước của chính quyền địa phương, Nxb. Tư pháp, tr. 11 - 12.
[10]. Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986) chủ trương: “… phải kiên quyết thực hiện phân cấp quản lý theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Việc phân cấp quản lý phải bảo đảm quyền làm chủ của ba cấp…”.
[11]. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII (năm 2021).
[12]. Điều 83 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 và Điều 28 Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019).
[13]. Khoản 3 Điều 12 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019).
[14]. Vũ Thành Tự Anh, 2012, Phân cấp quản lý kinh tế ở Việt Nam nhìn từ góc độ thể chế, Kỷ yếu Diễn đàn Kinh tế mùa Thu - Kinh tế Việt Nam 2012, triển vọng 2013: Đổi mới phân cấp trong cải cách thể chế.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Khi thực hiện sắp xếp các đơn vị hành chính và thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp, việc đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động của chính quyền địa phương nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, thích ứng với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới là điều cần thiết. Các địa phương sau sắp xếp đứng trước những yêu cầu cấp thiết về đổi mới, vận hành hiệu quả mô hình tổ chức chính quyền địa phương. Bài viết đề xuất một số kiến nghị để tiếp tục đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động chính quyền địa phương, góp phần bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của nền công vụ trong bối cảnh mới.
Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 194/2025/QH15 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo cơ sở pháp lý thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Bài viết nghiên cứu, phân tích về những nội dung cần bổ sung vào chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để thực hiện việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đang lấy ý kiến nhân dân để thực hiện các chủ trương của Đảng về việc sắp xếp lại chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, không tổ chức cấp huyện. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi bộ máy hành chính phải được tổ chức khoa học, tinh, gọn, minh bạch, hiệu quả nhằm tạo đà cho đất nước phát triển càng trở lên cấp thiết. Xuất phát từ thực trạng tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã và đòi hỏi của thực tiễn, bài viết đề xuất một số gợi mở về đổi mới tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã trong thời gian tới.
Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội như hiện nay, việc tổ chức lại bộ máy chính quyền theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (dự thảo Nghị quyết) là yêu cầu tất yếu. Điều này đòi hỏi phải cải cách toàn diện cả về cấu trúc chiều ngang (sáp nhập địa giới hành chính) và chiều dọc (rút gọn cấp chính quyền trung gian) nhằm mở rộng không gian phát triển, tăng cường tính liên kết giữa trung ương và cơ sở, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân. Bài viết nghiên cứu mô hình tổ chức chính quyền địa phương gắn với địa bàn cụ thể dưới góc nhìn từ cơ sở (Tây Nguyên) để đưa ra những phân tích, nhận định và đề xuất giải pháp cho việc cải cách chính quyền địa phương theo dự thảo Nghị quyết.
So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

Bài viết phân tích, nghiên cứu thiết chế chính quyền địa phương ở Cộng hòa Pháp và Việt Nam; so sánh một số điểm tương đồng, khác biệt về tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương theo hiến pháp của hai nước. Trên cơ sở mô hình tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương của Cộng hòa Pháp, bài viết đề xuất một số kiến nghị để Việt Nam nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cuộc “cách mạng” về tinh gọn bộ máy theo các chủ trương, chính sách của Đảng và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.
Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử. Trên cơ sở nhận diện những khó khăn, vướng mắc, bài viết đề xuất các khuyến nghị để xây dựng khung pháp lý toàn diện, hiệu quả hơn trong việc tích hợp trí tuệ nhân tạo vào công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời gian tới.

Trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bài viết phân tích, đánh giá một số khía cạnh pháp lý, kinh tế của chế độ trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện về chế độ trách nhiệm hữu hạn trong pháp luật doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam.

Hoàn thiện quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dùng vào việc thờ cúng

Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng qua các thời kỳ và thực tiễn áp dụng pháp luật qua công tác xét xử của Tòa án đối với tranh chấp liên quan đến chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng, từ đó, đưa ra một số gợi mở nhằm hoàn thiện chế định này.
Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Sau hơn 11 năm triển khai thi hành, Hiến pháp năm 2013 đã tạo cơ sở hiến định quan trọng cho việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Bên cạnh những kết quả đạt được, hiện nay, việc thực hiện các quy định của Hiến pháp và pháp luật liên quan đến Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và chính quyền địa phương vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện nhằm để đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Ủy ban Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 ban hành Kế hoạch tổ chức lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Việc lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết nhằm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, huy động trí tuệ, tâm huyết và tạo sự đồng thuận, thống nhất cao của toàn dân trong việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013, bảo đảm Hiến pháp phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của Nhân dân.
Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013 là một sự kiện chính trị và pháp lý trọng đại, dù ở phạm vi, quy mô nào cũng là một công việc rất hệ trọng, thiêng liêng. Do vậy, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp phải được tiến hành thận trọng, khách quan, dân chủ, khoa học, hiệu quả với sự tham gia tích cực, đồng bộ của các cơ quan, tổ chức, các chuyên gia, nhà khoa học và toàn thể Nhân dân theo đúng chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính  – bổ sung nhiều quy định mới

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính – bổ sung nhiều quy định mới

Trên cơ sở phát biểu đề dẫn của đồng chí Trương Thế Côn, Tổng Biên tập Tạp chí Dân chủ và pháp luật, phát biểu của đồng chí Hồ Quang Huy, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính về sự cần thiết, quá trình soạn thảo và định hướng xây dựng Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm pháp luật hành chính, Hội thảo khoa học “Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi pham hành chính” đã tiếp nhận được gần 20 ý kiến phát biểu và hơn 10 bài nghiên cứu chuyên sâu. Các bài viết và ý kiến phát biểu tại Hội thảo sẽ được Tạp chí Dân chủ và Pháp luật và Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính tổng hợp, xem xét để gửi tới cá nhân, cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong quá trình xây dựng, quyết định chính sách.
Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp.
Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp  nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV khai mạc sáng ngày 05/5/2025. Đây là Kỳ họp có nhiều nội dung quan trọng, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII - Hội nghị lịch sử, bàn về những quyết sách lịch sử trong giai đoạn Cách mạng mới của nước ta, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm