1. Nguyên tắc bầu cử qua các bản Hiến pháp của Việt Nam
Nguyên tắc bầu cử có vai trò quan trọng, là điều kiện, yêu cầu phải thực hiện trong quá trình bầu cử, quyết định tính hợp pháp, chính danh của cuộc bầu cử. Những nguyên tắc phải thống nhất với nhau, đảm bảo cho cuộc bầu cử được khách quan, dân chủ, thực hiện đúng nguyện vọng của cử tri khi lựa chọn đại biểu, đồng thời, bảo đảm quyền và trách nhiệm của cử tri trong bầu cử, là trách nhiệm của Nhà nước phải bảo đảm thực hiện các quy định về bầu cử. Có thể nói, các nguyên tắc bầu cử được hiến định là tư tưởng nền tảng, chi phối toàn bộ chế độ bầu cử. Nhìn vào các nguyên tắc bầu cử, có thể đánh giá được tính công bằng, dân chủ của chế độ bầu cử của một quốc gia.
Ở Việt Nam, nguyên tắc bầu cử được ghi nhận xuyên suốt trong các bản Hiến pháp, đạo luật gốc của nước ta, cụ thể:
Hiến pháp năm 1946 ghi nhận những nguyên tắc cơ bản của chế độ bầu cử ở Việt Nam là: “Chế độ bầu cử là phổ thông đầu phiếu. Bỏ phiếu phải tự do, trực tiếp và kín” (Điều thứ 17).
Đến Hiến pháp năm 1959, nguyên tắc trực tiếp, phổ thông, bỏ phiếu kín vẫn tiếp tục được ghi nhận. So với Hiến pháp năm 1946, nguyên tắc bầu cử được quy định tại Hiến pháp năm 1959 cũng có điểm mới, nguyên tắc “bỏ phiếu phải tự do” được thay thế bằng nguyên tắc “bình đẳng”. Điều 5 Hiến pháp năm 1959 quy định: “Việc tuyển cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp đều tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín”.
Trong Hiến pháp năm 1980, nguyên tắc bầu cử được quy định tại Điều 7, theo đó, việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Hiến pháp năm 1980 có quy định mới, đó là việc cử tri có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, nếu đại biểu đó không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.
Theo Hiến pháp năm 1992, việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
Hiến pháp năm 2013 và Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015 tiếp tục giữ nguyên các nguyên tắc của bầu cử, gồm: “Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín” và ngày bầu cử được công bố chậm nhất là 115 ngày trước ngày bầu cử.
2. Những nguyên tắc bầu cử được áp dụng trong tiến trình bầu cử ở Việt Nam
Nguyên tắc bầu cử được áp dụng trong tiến trình bầu cử ở Việt Nam hiện nay được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013. Theo đó, việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
Nguyên tắc phổ thông: Đây là nguyên tắc rất quan trọng, bảo đảm để mọi công dân không phân biệt dân tộc, nam, nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đến tuổi trưởng thành đều được trao quyền bầu cử (trừ những người mất năng lực hành vi dân sự hay những người bị tước quyền bầu cử theo quy định của pháp luật). Theo đó, công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
Nhà nước bảo đảm nguyên tắc này trên hai căn bản: (i) Điều kiện pháp lý để tất cả người dân đủ điều kiện được đi bỏ phiếu. (ii) Điều kiện vật chất, Nhà nước tạo mọi điều kiện vật chất, thuận lợi cần thiết để người dân thực hiện quyền bầu cử hoặc ứng cử của mình kịp thời theo quy định pháp luật.
Nguyên tắc bầu cử phổ thông là sự bảo đảm trực tiếp cho tính dân chủ và tính chính danh của một cuộc bầu cử. Người dân tự nguyện tham gia bầu cử là thể hiện ý chí, tính tự nguyện của mình trong tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, thể hiện nhà nước thực sự là của nhân dân. Bên cạnh đó, nguyên tắc phổ thông còn thể hiện ở chỗ, cơ hội tham gia ứng cử công bằng với tất cả mọi người. Điều này góp phần tạo niềm tin của người dân vào sự lựa chọn của mình, từ đó, gia tăng tính chính danh của cơ quan đại diện, bộ máy nhà nước do người dân đã bỏ phiếu bầu chọn.
Nguyên tắc bình đẳng: Được thể hiện ở quyền bầu cử và quyền ứng cử. Về bầu cử, mỗi cử tri không phân biệt đều có một lần bỏ phiếu như nhau, giá trị lá phiếu của mỗi cử tri đều như nhau, số lượng dân cư như nhau thì bầu được số lượng đại biểu bằng nhau. Ví dụ như: Cử tri A, cử tri B, cử tri C… đi bầu tại đơn vị bầu cử X thì phiếu của A, của B, của C đều có giá trị như nhau và cũng giống như tất cả phiếu của các cử tri khác trong đơn vị bầu cử X và tương tự như vậy ở các đơn vị bầu cử. Tuy nhiên, giá trị lá phiếu của các cử tri ở các đơn vị bầu cử khác nhau có thể khác nhau vì còn phụ thuộc vào số lượng cử tri ở mỗi đơn vị bầu cử, tức là số lượng đại biểu được bầu căn cứ trên số lượng cử tri ở mỗi đơn vị bầu cử của từng địa phương.
Nguyên tắc bình đẳng còn thể hiện ở giữa các ứng cử viên trong một cuộc bầu cử. Khi đã được giới thiệu trong danh sách ứng cử viên thì các ứng cử viên dù thuộc thành phần nào cũng đều có quyền và nghĩa vụ bằng nhau. Trong danh sách ứng cử viên công bố tới cử tri, thứ tự tên của các ứng cử viên được xếp theo được xếp theo vần chữ cái A, B, C… Pháp luật Việt Nam quy định “kinh phí tuyên truyền, vận động bầu cử được bảo đảm bằng ngân sách nhà nước”[1]. Hành vi “sử dụng hoặc hứa tặng, cho, ủng hộ tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất để lôi kéo, mua chuộc cử tri”[2] đều bị cấm. Có thể nói, quy định chặt chẽ để bảo đảm sự bình đẳng giữa các ứng cử viên trong vận động bầu cử là một sắc màu đặc thù của nguyên tắc bình đẳng bầu cử ở Việt Nam.
Nguyên tắc trực tiếp: Nhằm bảo đảm cho người dân trực tiếp thể hiện ý chí của mình trong lựa chọn đại biểu, cử tri đồng ý bầu chọn ứng cử viên nào thì bỏ phiếu thẳng cho người đó và được tính trực tiếp vào kết quả bầu chọn đối với ứng cử viên. Cử tri được trực tiếp bỏ phiếu mà không qua người trung gian, cử tri cũng trực tiếp lựa chọn người mình bỏ phiếu, trực tiếp lựa chọn người mà mình giao quyền, vì vậy, nguyên tắc bầu cử trực tiếp là nhân tố quan trọng bảo đảm tính dân chủ của cuộc bầu cử, tức là người dân thực sự làm chủ và chọn người nắm giữ quyền lực.
Theo Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015[3], mỗi cử tri có quyền bỏ một phiếu bầu đại biểu Quốc hội và bỏ một phiếu bầu đại biểu Hội đồng nhân dân tương ứng với mỗi cấp Hội đồng nhân dân. Cử tri phải tự mình đi bầu cử, không được nhờ người khác bầu cử thay, trừ những trường hợp: (i) Cử tri không thể tự viết được phiếu bầu thì nhờ người khác viết hộ, nhưng phải tự mình bỏ phiếu; người viết hộ phải bảo đảm bí mật phiếu bầu của cử tri. Trường hợp cử tri vì khuyết tật không tự bỏ phiếu được thì nhờ người khác bỏ phiếu vào hòm phiếu. (ii) Cử tri ốm đau, già yếu, khuyết tật không thể đến phòng bỏ phiếu được thì Tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến chỗ ở, chỗ điều trị của cử tri để cử tri nhận phiếu bầu và thực hiện việc bầu cử. Đối với cử tri là người đang bị tạm giam, người đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc mà trại tạm giam, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc không tổ chức khu vực bỏ phiếu riêng hoặc cử tri là người đang bị tạm giữ tại nhà tạm giữ thì Tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến trại tạm giam, nhà tạm giữ, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc để cử tri nhận phiếu bầu và thực hiện việc bầu cử. Khi bầu cử, cử tri phải xuất trình thẻ cử tri.
Nguyên tắc bỏ phiếu kín: Nguyên tắc bỏ phiếu kín nhằm bảo đảm tôn trọng quyền tự do thể hiện ý chí của cử tri, tạo điều kiện để quá trình lựa chọn của mỗi cử tri không bị tác động, ảnh hưởng bởi các cá nhân hoặc tổ chức khác và không ai được biết nội dung phiếu bầu của cử tri. Bỏ phiếu kín, bảo đảm công đoạn viết phiếu và bỏ phiếu phải được tổ chức sao cho không ai được biết nội dung của lá phiếu cũng như sự lựa chọn của cử tri ngoài chính bản thân cử tri. Cụ thể hóa nguyên tắc bỏ phiếu kín, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015[4] quy định khi cử tri viết phiếu bầu thì không ai được xem, kể cả thành viên Tổ bầu cử, tức là những người phụ trách bầu cử ở địa phương, trong trường hợp có người viết hộ thì người viết hộ phải bảo đảm bí mật phiếu bầu của cử tri.
Việc thực hiện nguyên tắc bỏ phiếu kín là nhằm bảo đảm tính khách quan của cuộc bầu cử. Bầu chọn người nắm giữ quyền lực nhà nước là một vấn đề lựa chọn riêng, tự nguyện và giữ bí mật phiếu bầu là quy định bảo đảm cử tri có thể tiến hành lựa chọn ứng cử viên một cách tự do mà không e ngại bất cứ hậu quả bất lợi nào đối với mình, từ đó bảo đảm tính khách quan, dân chủ của cuộc bầu cử.
3. Một số vấn đề đặt ra và điều kiện bảo đảm thực hiện nguyên tắc bầu cử, quyền bầu cử hiện nay
3.1. Xu hướng hoàn thiện về các nguyên tắc bầu cử trên thế giới
Xu hướng hoàn thiện pháp luật về bầu cử ở nhiều quốc gia trên thế giới[5] dành sự tập trung vào các quy định về nguyên tắc bầu cử phổ thông theo hướng mở rộng phạm vi công dân có quyền bầu cử; nhà nước hoàn thiện, bảo đảm pháp lý và bảo đảm thực tế tốt hơn việc thực hiện quyền bầu cử cho công dân, trong một số trường hợp nhất định thì cách thức bỏ phiếu có thể được thực hiện khác nhau, có thể trực tiếp bỏ lá phiếu vào thùng phiếu hoặc qua thư điện tử…; các nguyên tắc bầu cử được quy định rõ ràng, minh bạch về quyền bầu cử, ứng cử, phân chia đơn vị bầu cử, phân bổ số đại biểu cho các đơn vị bầu cử, giới thiệu người ứng cử, người tự ứng cử tham gia các cuộc bầu cử; vận động tranh cử, chương trình hành động của các ứng cử viên, cách thức bỏ phiếu, nguyên tắc xác định kết quả bầu cử.
3.2. Một số điều kiện bảo đảm thực hiện nguyên tắc bầu cử, quyền bầu cử
Một là, về quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân
Để bảo đảm thực hiện chế độ bầu cử và dân chủ, xu hướng chung của thế giới, cũng như của Việt Nam là hướng tới hoàn thiện chế độ bầu cử phổ thông, bình đẳng, dễ tiếp cận. Căn cứ vào những điều kiện bảo đảm, cơ quan có thẩm quyền có thể nghiên cứu, quy định thêm hình thức truyền tải sự lựa chọn, như bỏ phiếu qua thư tín hay thư điện tử… tạo sự thuận tiện cho người dân thực hiện quyền của mình.
Theo tác giả, cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu, có những quy định cụ thể hơn về trình tự, thủ tục tự ứng cử để tạo điều kiện cho người dân thực hiện quyền này một cách dễ dàng, góp phần bảo đảm trên thực tế các điều kiện để công dân có thể thực hiện tốt hơn quyền về chính trị đã được Hiến pháp quy định.
Hai là, về tiêu chuẩn, cơ cấu đại biểu Quốc hội
Tiêu chuẩn đại biểu là một căn cứ quan trọng để cử tri có cơ sở lựa chọn, giới thiệu người ra ứng cử hoặc tự ứng cử, bầu cử. Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình và của nhân dân cả nước. Quốc hội là nơi để cử tri và nhân dân cả nước gửi gắm niềm tin và nguyện vọng của mình, vì vậy, để nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của Quốc hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân thì việc lựa chọn những đại biểu thực sự có đức, có tài, có tâm, có tầm sẽ nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội. Cử tri cả nước cần sáng suốt lựa chọn ứng viên có uy tín cao, có khả năng đại diện thực sự cho lợi ích chung của dân, lợi ích quốc gia.
Ba là, về hiệp thương lựa chọn, giới thiệu ứng cử viên và đơn vị bầu cử
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể tăng cường vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện quyền làm chủ, xây dựng nhà nước của dân, bầu ra cơ quan đại diện Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp một cách thực sự dân chủ, thông qua việc giới thiệu người ứng cử, tổ chức hiệp thương dân chủ, tuyên truyền vận động bầu cử; kiên quyết khắc phục lối dân chủ hình thức, làm thay nhân dân.
Cần kết hợp tổ chức đơn vị bầu cử một cách đa dạng, vừa tổ chức đơn vị bầu cử theo đơn vị hành chính, vừa theo tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, cộng đồng doanh nghiệp, hiệp hội nghề nghiệp; thực hiện tốt các biện pháp tổ chức trực tiếp, để cử tri thực sự nắm rõ về ứng cử viên và khi được bầu, các ứng cử viên phải thực sự là tiêu biểu cho các cơ quan, tổ chức đó, các ngành, các giới, các hiệp hội; gắn bó chặt chẽ và vì lợi ích cử tri, nhân dân. Giám sát, kiểm tra chặt các tổ chức bầu cử, trong đó, cần có thiết chế trong việc kiểm tra, giám sát của cả Nhà nước và xã hội, bảo đảm tính khách quan, chính xác của kết quả bầu cử bằng việc huy động sự tham gia của cử tri vào công tác kiểm phiếu và bố trí bàn bỏ phiếu với vị trí phù hợp, kín và có sự ngăn cách giữa các cử tri tham gia bỏ phiếu.
Bốn là, nâng cao nhận thức về quyền bầu cử và thực hiện quyền bầu cử của cử tri
Cần đánh giá thực tiễn thi hành các quy định pháp luật về bầu cử, thực tiễn trong các kỳ bầu cử. Tình trạng bầu hộ, bầu thay vẫn diễn ra trên thực tiễn, điều này dẫn tới hệ quả là không phản ánh được thực chất của kết quả bầu cử, không phản ánh được ý chí, nguyện vọng của cử tri trong việc lực chọn người đại diện cho mình. Vì vậy, cần tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bầu cử; khuyến khích người dân chủ động tìm hiểu các quy định pháp luật về công tác bầu cử, các thông tin về danh sách cử tri, danh sách đại biểu ứng cử, tiểu sử tóm tắt các đại biểu ứng cử. Trong quá trình triển khai cuộc bầu cử, kịp thời ghi nhận ý kiến đóng góp, kiến nghị của cử tri để các cơ quan xem xét, khắc phục, đảm bảo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng của tiến trình bầu cử.
Học viện Ngân hàng
[1]. Điều 62 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015.
[2]. Điều 68 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015.
[3]. Điều 69 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015.
[4]. Khoản 3, 5 Điều 69 Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2015.
[5]. https://tcnn.vn/news/detail/49308/Hoan-thien-phap-luat-ve-bau-cu-o-Viet-Nam.html, đăng ngày 15/12/2020.