Từ khóa: giáo dục; cha mẹ; gia đình; con.
Abstract: The article studies and analyzes the shortcomings in the legal regulations on the obligations and educational rights of parents towards their children, thereby making some recommendations to improve the law to promote the right to education of children in the family to be implemented effectively, meeting the development requirements of children and society in the current context.
Keywords: Education; parents; family; children.
Đặt vấn đề
Giáo dục là yếu tố nền tảng hình thành và phát triển nhân cách con người. Thông qua hoạt động giáo dục, mỗi cá nhân không chỉ được trau dồi về kiến thức, kỹ năng mà còn được rèn giũa tính cách, thái độ sống phù hợp với các chuẩn mực xã hội. Mục tiêu của hoạt động giáo dục được quy định cụ thể trong Luật Giáo dục năm 2019. Tuy nhiên, trên thực tế, một số trẻ em không được đi học, đồng thời, phải tham gia lao động sớm phần lớn đều có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, mục đích lao động để kiếm thêm thu nhập phụ giúp gia đình, cha mẹ[1]. Do đó, để bảo vệ quyền được giáo dục của trẻ em cần phải xem xét cẩn trọng và toàn diện về trách nhiệm của cha mẹ.
Nghĩa vụ và quyền giáo dục con cái là nghĩa vụ, quyền về nhân thân của cha mẹ đối với con. Vì vậy, quyền và nghĩa vụ này không được chuyển giao cho chủ thể khác thực hiện thay cha mẹ, mà cần sự phối hợp giữa cha mẹ với các cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật trong việc bảo đảm và thúc đẩy thực hiện quyền được giáo dục của người con. Mặc dù, pháp luật hiện hành đã có những quy định về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con, tuy nhiên, đánh giá một cách tổng quan, các quy định này còn tồn tại một số bất cập cần được tiếp tục hoàn thiện.
Nghiên cứu này nhận diện các bất cập trong quy định pháp luật hiện hành về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con, từ đó, kiến nghị hoàn thiện pháp luật nhằm thúc đẩy việc thực hiện quyền được giáo dục của trẻ em trong gia đình.
1. Một số vấn đề pháp lý về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con
Thứ nhất, xác định ranh giới giữa nghĩa vụ, quyền giáo dục con với nghĩa vụ, quyền nuôi dưỡng con của cha mẹ.
Khoản 1 Điều 69 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định cha mẹ có nghĩa vụ và quyền thương yêu con, tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập, giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội. Khoản 1 Điều 72 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định cha mẹ có nghĩa vụ và quyền giáo dục con, chăm lo và tạo điều kiện cho con học tập. Cha mẹ tạo điều kiện cho con được sống trong môi trường gia đình đầm ấm, hòa thuận; làm gương tốt cho con về mọi mặt; phối hợp chặt chẽ với nhà trường, cơ quan, tổ chức trong việc giáo dục con. Các quy định này đề cập chung về chủ thể được thụ hưởng quyền là “con”, theo đó, đối tượng con được thụ hưởng quyền được giáo dục từ phía cha mẹ, gồm cả con đẻ, con nuôi hay thậm chí là con riêng vợ hoặc chồng (tiếp cận từ phương diện nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha dượng, mẹ kế đối với con riêng khi sống chung với con riêng[2]). Đồng thời, đối tượng con được cha mẹ giáo dục có thể gồm cả con thành niên và con chưa thành niên.
Trong khi đó, khoản 2 Điều 69 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định nghĩa vụ và quyền nuôi dưỡng con chỉ áp dụng đối với con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy, dưới góc độ pháp lý và thực tiễn, quyền được giáo dục (theo nghĩa rộng) có thể tồn tại ở mọi giai đoạn phát triển của đời sống con người, bất kể người con đã đủ 18 tuổi và có khả năng nhận thức hay chưa.
Giữa nghĩa vụ, quyền giáo dục với nghĩa vụ, quyền nuôi dưỡng con của cha mẹ có mối quan hệ gắn bó mật thiết, đan xen nhau. Vấn đề đặt ra, việc cha mẹ đóng góp tài chính bảo đảm cho con được học tập, giáo dục thuộc nội hàm của nghĩa vụ nuôi dưỡng hay giáo dục. Về vấn đề này, có quan điểm cho rằng, việc chăm lo và tạo điều kiện vật chất cho việc giáo dục con nằm trong phần giao thoa giữa hai nghĩa vụ này[3].
Vì vậy, cần làm rõ việc “tạo điều kiện cho con học tập” có bao gồm cả nghĩa vụ đóng góp tài chính và bảo đảm điều kiện vật chất để con được đến trường, hay “tạo điều kiện” chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp là cha mẹ không được cản trở con tiếp cận hoạt động giáo dục tại các cơ sở giáo dục và các hình thức giáo dục khác.
Nếu hiểu theo nghĩa thứ nhất, cha mẹ phải đồng thời thực hiện hai nghĩa vụ gồm nuôi dưỡng và giáo dục. Tuy nhiên, đối tượng con được hưởng quyền giáo dục trong pháp luật Việt Nam rộng hơn so với nhóm con được hưởng quyền nuôi dưỡng. Thực tiễn đã có nhiều tranh luận về việc cha mẹ có phải chu cấp học phí cho con đã thành niên (đặc biệt, ở bậc cao đẳng, đại học…), có khả năng lao động nhưng đang đi học hay không[4].
Nếu hiểu cụm từ “tạo điều kiện” theo nghĩa rộng, việc hỗ trợ tài chính để con học ở bậc cao đẳng, đại học cũng thuộc phạm vi nghĩa vụ giáo dục của cha mẹ. Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy, cách hiểu này không phù hợp với tinh thần của pháp luật thực định. Theo đó, cha mẹ chỉ có nghĩa vụ cung cấp điều kiện vật chất thiết yếu (nghĩa vụ nuôi dưỡng) đối với con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng mất khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi sống. Đối với con đã thành niên, có khả năng lao động bình thường, trách nhiệm nuôi sống bản thân, gồm cả việc học tập và nâng cao trình độ ở bậc học cao hơn, thuộc về người con. Do đó, giáo dục cần được xác định là nghĩa vụ độc lập, tách biệt với nghĩa vụ nuôi dưỡng. Sự thiếu minh bạch trong khung pháp lý hiện hành dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau về quy định này.
Thứ hai, nội dung nghĩa vụ và quyền của cha mẹ đối với con chủ yếu mang tính định hướng và thiếu sự ràng buộc pháp lý.
Khoản 1 Điều 72 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định cha mẹ tạo điều kiện cho con được sống trong môi trường gia đình đầm ấm, hòa thuận; làm gương tốt cho con về mọi mặt. Về phương diện lý luận, quy định này phù hợp với mục tiêu giáo dục trong gia đình và thể hiện rõ giá trị nhân văn, bởi, môi trường gia đình hòa thuận là nền tảng để trẻ em được thụ hưởng tình yêu thương, sự quan tâm đầy đủ từ cả cha và mẹ. Thực tế cho thấy, trẻ em lớn lên trong gia đình hạnh phúc thường có cơ hội phát triển toàn diện hơn, cả về thể chất và tinh thần. Bởi, trẻ em trong gia đình hạnh phúc thường được nuôi dạy bằng tình yêu và sự tôn trọng[5]. Điều này có nghĩa, nếu cha mẹ thường xuyên mâu thuẫn, bất hòa, không bảo đảm môi trường gia đình đầm ấm, hạnh phúc thì được coi là vi phạm nghĩa vụ giáo dục con. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa quy định chế tài cụ thể và chỉ dừng lại ở mức định hướng đạo đức mà thiếu tính ràng buộc pháp lý.
Pháp luật cũng chú trọng đến quyền lựa chọn nghề nghiệp của con và vai trò định hướng của cha mẹ. Khi bước vào độ tuổi lao động, người con có thể tham gia thị trường lao động để tạo thu nhập cho bản thân, do đó, sự định hướng của cha mẹ giữ vai trò quan trọng. Khoản 2 Điều 72 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định cha mẹ có quyền hướng dẫn con chọn nghề; tôn trọng quyền chọn nghề, quyền tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của con. Quy định này phù hợp và cần thiết, bởi, dù đã thành niên nhưng người con còn thiếu nhiều kinh nghiệm để có thể lựa chọn và xác định được một công việc tốt[6]. Tuy nhiên, hiện, pháp luật chưa quy định cơ chế giải quyết trong trường hợp phát sinh mâu thuẫn giữa cha mẹ và con về lựa chọn nghề nghiệp. Bên cạnh đó, việc quy định cha mẹ tôn trọng quyền tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của con chưa thực sự hợp lý. Bởi, quyền tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội là quyền con người, quyền công dân cơ bản được Hiến pháp và các luật chuyên ngành bảo đảm, không chỉ giới hạn trong phạm vi giáo dục của cha mẹ.
Về mặt chế tài, tùy theo mức độ vi phạm và hậu quả thực tế đối với người con, cha mẹ có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu hành vi có đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 3 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2022, hành vi “không giáo dục thành viên gia đình là trẻ em” được xác định là một trong các dạng bạo lực gia đình. Đây là điểm mới vì Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 chưa quy định nội dung này. Tuy nhiên, đối tượng con được hưởng quyền giáo dục từ cha mẹ không chỉ giới hạn ở trẻ em, mà còn gồm cả người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi, thậm chí cả người đã thành niên. Bên cạnh đó, hiện, pháp luật chưa làm rõ khái niệm “không giáo dục”, gây khó khăn cho việc xác định hành vi vi phạm và áp dụng chế tài. Với các quy định mang tính khái quát, việc xử lý vi phạm nghĩa vụ giáo dục của cha mẹ sẽ gặp nhiều thách thức, trừ trường hợp hành vi vi phạm dẫn đến hậu quả nghiêm trọng đối với tính mạng hoặc sức khỏe của người con.
Thứ ba, trách nhiệm phối hợp giữa cha mẹ với nhà trường, cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện nghĩa vụ và quyền giáo dục đối với con chưa được quy định toàn diện.
Để việc giáo dục con đạt hiệu quả, cơ chế phối hợp giữa cha mẹ với các cơ quan, tổ chức có liên quan giữ vai trò quan trọng. Đặc biệt, khi trẻ đang ở độ tuổi đi học, sự phối hợp giữa cha mẹ và nhà trường là yêu cầu cần thiết. Việc con tham gia các hoạt động học tập tại trường không đồng nghĩa với việc cha mẹ được miễn trừ trách nhiệm trong giáo dục con. Cha mẹ cần thường xuyên quan tâm đến con cái, quá trình học tập, tu dưỡng của con, tích cực tham gia các buổi họp, trao đổi với nhà trường và chủ động bàn bạc, đề xuất những biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục trẻ[7]. Về phía nhà trường, khoản 1 Điều 89 Luật Giáo dục năm 2019 quy định trách nhiệm chủ động phối hợp với gia đình và xã hội để tổ chức hoặc tham gia các hoạt động giáo dục theo kế hoạch của nhà trường, bảo đảm an toàn cho người dạy và người học; thông báo về kết quả học tập, rèn luyện của học sinh cho cha mẹ hoặc người giám hộ.
Bên cạnh sự phối hợp từ phía nhà trường, pháp luật còn ghi nhận quyền của cha mẹ trong việc yêu cầu cơ quan, tổ chức hỗ trợ giáo dục con. Cụ thể, khoản 3 Điều 72 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định cha mẹ có thể đề nghị cơ quan, tổ chức hữu quan giúp đỡ để thực hiện việc giáo dục con khi gặp khó khăn không thể tự giải quyết được. Pháp luật hiện hành chưa giải thích cụ thể khái niệm “khó khăn không thể tự giải quyết được”, tuy nhiên, có thể hiểu khái niệm này không hẳn là các khó khăn về vật chất vì cha mẹ nghèo vẫn tự mình giáo dục được con mà còn là các trường hợp phức tạp về tâm lý, hành vi của con như ngỗ nghịch, hư hỏng, mắc tệ nạn xã hội mà cha mẹ không có khả năng giáo dục[8]. Bên cạnh đó, pháp luật chưa xác định rõ cơ quan, tổ chức nào có trách nhiệm phối hợp với cha mẹ khi được yêu cầu, gây lúng túng cho cha mẹ khi gặp khó khăn trong việc giáo dục con. Nghiên cứu pháp luật một số quốc gia cho thấy, việc quy định rõ ràng chủ thể có thẩm quyền là cần thiết. Chẳng hạn, tại Liên bang Nga, pháp luật quy định cha mẹ (hoặc một trong hai người) khi có bất đồng có quyền yêu cầu cơ quan giám hộ và bảo trợ hoặc Toà án quyết định[9]. Tại Pháp, cơ chế hỗ trợ cha mẹ trong việc giáo dục con được quy định trong các điều khoản riêng biệt với nội dung chi tiết. Điều 375 Bộ luật Dân sự của Pháp quy định: Nếu sức khỏe, sự an toàn hoặc nhân phẩm của con chưa thành niên chưa có đầy đủ năng lực hành vi bị đe dọa hoặc nếu các điều kiện giáo dục hay sự phát triển thể chất, tình cảm, tri thức hoặc xã hội của con bị vi phạm nghiêm trọng, thì Tòa án có thể ra lệnh áp dụng biện pháp hỗ trợ giáo dục. Chủ thể có quyền yêu cầu áp dụng biện pháp hỗ trợ gồm: cha, mẹ, người giám hộ, cá nhân hoặc tổ chức được giao nuôi dưỡng trẻ, cũng như Viện Công tố. Theo quy định tại các điều 375-2 và 375-3 Bộ luật Dân sự của Pháp, trẻ có thể tiếp tục được nuôi dưỡng trong gia đình hiện tại, đồng thời, Thẩm phán có thể chỉ định cá nhân hoặc tổ chức thực hiện việc theo dõi, giáo dục, tư vấn nhằm hỗ trợ gia đình khắc phục những khó khăn về vật chất hoặc tinh thần. Trường hợp cần thiết, Thẩm phán có quyền giao trẻ cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức được quy định tại Điều 375-3 Bộ luật Dân sự của Pháp. Nhìn chung, cơ chế hỗ trợ giáo dục tại Pháp được quy định chi tiết, xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức và cá nhân liên quan. Đây là kinh nghiệm mà pháp luật Việt Nam có thể tham khảo, tiếp thu có chọn lọc để hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả giáo dục con, đồng thời, bảo đảm quyền, lợi ích của các bên trong quan hệ cha mẹ với con trong những trường hợp đặc thù.
Như vậy, qua nghiên cứu cho thấy, quy định của pháp luật Việt Nam về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con tồn tại một số bất cập như đã được phân tích. Vì vậy, Việt Nam cần xem xét sửa đổi một số quy định tại Điều 72 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 hoặc ban hành văn bản hướng dẫn thi hành. Thực tiễn cho thấy, tranh chấp liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con tuy không phổ biến, nhưng điều đó không có nghĩa các quy định pháp luật hiện hành đã đầy đủ và phù hợp.
Việc khắc phục những hạn chế trên hoàn toàn phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Nghị quyết số 71-NQ/TW ngày 22/8/2025 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo (Nghị quyết số 71-NQ/TW) nhấn mạnh yêu cầu “tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm bảo đảm yêu cầu giáo dục đạo đức, nhân cách và hệ giá trị chuẩn mực con người Việt Nam trong mọi lĩnh vực đời sống chính trị, kinh tế, xã hội.
Phân định rõ vai trò, trách nhiệm và cơ chế phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong giáo dục đạo đức, nhân cách và hệ giá trị chuẩn mực con người Việt Nam; đề cao trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước, các cấp ủy đảng, chính quyền địa phương”. Do đó, việc sửa đổi, bổ sung Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, các văn bản pháp luật có liên quan về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con là cần thiết nhằm hiện thực hóa chủ trương lớn về phát triển giáo dục và đào tạo ở Việt Nam.
2. Một số kiến nghị
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung quy định tại Điều 72 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
- Cần xác định rõ ranh giới giữa nghĩa vụ, quyền giáo dục và nghĩa vụ, quyền nuôi dưỡng của cha mẹ đối với con. Để giải quyết vấn đề này, cụm từ “tạo điều kiện cho con học tập” trong quy định tại khoản 1 Điều 72 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cần sửa đổi theo hướng: “Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền giáo dục con, chăm lo và không được cản trở việc học tập của con, bảo đảm cho con hoàn thành chương trình giáo dục phổ cập”. Điều này giúp quy định cụ thể và thực tế hơn, đồng thời, phù hợp với các quy định của Luật Giáo dục năm 2019[10] và Luật Trẻ em năm 2016, sửa đổi, bổ sung năm 2024 (Luật Trẻ em năm 2016)[11]. Như vậy, các khoản chi phí cha mẹ bỏ ra để đáp ứng nhu cầu học tập của con thuộc phạm vi nghĩa vụ, quyền nuôi dưỡng. Đối với nghĩa vụ và quyền giáo dục, cha mẹ có trách nhiệm quan tâm, chăm lo và không được cản trở quyền học tập của con. Việc phân định rạch ròi hai nhóm nghĩa vụ và quyền này góp phần nâng cao nhận thức của cha mẹ trong việc thực hiện đầy đủ trách nhiệm pháp lý đối với con.
- Hiện, một số quy định về nghĩa vụ, quyền giáo dục của cha mẹ đối với con mới ở phương diện đạo đức. Do đó, cần rà soát và bãi bỏ những quy định không thực sự cần thiết. Cụ thể, quy định “tạo điều kiện cho con được sống trong môi trường gia đình đầm ấm, hòa thuận” và “tôn trọng quyền tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của con, bởi đây là những nghĩa vụ và quyền mang tính tự nhiên, không cần thiết phải quy định trực tiếp tại Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Ngược lại, nếu tiếp tục duy trì, cần thiết lập cơ chế giám sát việc thực hiện các quy định này, bảo đảm con được sống trong môi trường gia đình đầm ấm, hòa thuận, cha mẹ làm gương tốt và tôn trọng quyền tham gia hoạt động xã hội của con. Tuy nhiên, việc này khó khả thi và có thể làm gia tăng gánh nặng cho cơ quan nhà nước.
Đồng thời, cần xác định rõ phạm vi nghĩa vụ và quyền của cha mẹ trong việc giáo dục con. Việt Nam có thể nghiên cứu, tham khảo, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm lập pháp của Liên bang Nga. Cụ thể, khoản 2 Điều 63 Bộ luật Gia đình năm 1995 (sửa đổi, bổ sung năm 2025) của Liên bang Nga quy định: “Cha mẹ có nghĩa vụ bảo đảm cho con được nhận giáo dục phổ thông; có quyền lựa chọn cơ sở giáo dục, hình thức giáo dục và phương thức học tập cho con, đồng thời, phải xem xét đến ý kiến của con cho đến khi con hoàn thành chương trình giáo dục phổ thông cơ bản”. Trên cơ sở đó, để phù hợp với bối cảnh Việt Nam, cần sửa đổi, bổ sung đoạn thứ hai của khoản 1 Điều 72 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 như sau: “Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền lựa chọn cơ sở giáo dục, hình thức giáo dục phù hợp với lợi ích của con, có tính đến ý kiến của con từ đủ 07 tuổi trở lên, cho đến khi con thành niên”. Quy định này: (i) khẳng định quyền quyết định của cha mẹ trong các vấn đề liên quan đến giáo dục con, gồm cả trường hợp phát sinh bất đồng giữa cha mẹ và nhà trường, theo đó, quyết định cuối cùng thuộc về cha mẹ, trừ khi pháp luật có quy định khác; (ii) giới hạn phạm vi áp dụng đối với con chưa thành niên trong việc thụ hưởng quyền được cha mẹ lựa chọn cơ sở và hình thức giáo dục; về nguyên tắc, người con khi đã thành niên có đủ năng lực và nhận thức để tự quyết định hình thức học tập của bản thân; (iii) phù hợp với tinh thần của Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền năm 1948 của Liên hợp quốc[12] mà Việt Nam là thành viên.
Thứ hai, bổ sung chế tài xử lý hành vi cha, mẹ vi phạm nghĩa vụ, quyền giáo dục con.
Việc ban hành Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2022 đặt ra yêu cầu phải sửa đổi, bổ sung Nghị định số 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy, chữa cháy; cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình (Nghị định số 144/2021/NĐ-CP) để bảo đảm phù hợp với khung pháp luật hiện hành. Trên cơ sở đó, kiến nghị bổ sung Điều 57a vào Nghị định số 144/2021/NĐ-CP với nội dung như sau:
“Điều 57a. Vi phạm quy định về giáo dục
1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với cha, mẹ thực hiện một trong các hành vi sau:
a) Cản trở việc học tập của con, không bảo đảm cho con hoàn thành chương trình giáo dục phổ cập;
b) Ép buộc con chọn nghề trái với nguyện vọng của con, trừ trường hợp vì lợi ích của con.
2. Biện pháp khắc phục hậu quả
Buộc thực hiện nghĩa vụ, quyền giáo dục con theo quy định đối với các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này”.
Việc ghi nhận cụ thể chế tài trên vừa bảo đảm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, vừa góp phần thúc đẩy cha mẹ tuân thủ nghiêm các quy định về nghĩa vụ và quyền giáo dục con.
Thứ ba, ghi nhận cụ thể cơ quan có trách nhiệm hỗ trợ cha mẹ trong việc giáo dục con khi gặp khó khăn không thể tự giải quyết được và làm rõ phạm vi “khó khăn không thể tự giải quyết được” nhằm tạo cơ sở pháp lý để cha mẹ yêu cầu hỗ trợ khi cần thiết.
- Nghiên cứu bổ sung quy phạm giải thích khái niệm “khó khăn không thể tự giải quyết được”, theo đó, có thể quy định khó khăn không thể tự giải quyết được không hẳn là các khó khăn vật chất mà còn là khó khăn trong các trường hợp phức tạp về tâm lý, hành vi của con.
- Xác định cơ quan có trách nhiệm hỗ trợ, giúp đỡ cha mẹ trong việc giáo dục con. Theo khoản 3 Điều 15 Nghị định số 150/2025/NĐ-CP ngày 12/6/2025 của Chính phủ quy định về tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và Ủy ban nhân dân xã, phường, đặc khu, Phòng Văn hóa - Xã hội có chức năng tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện quản lý nhà nước trong lĩnh vực gia đình. Do đó, việc quy định Phòng Văn hóa - Xã hội cấp xã có trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ cha mẹ trong việc giáo dục con là phù hợp với bối cảnh thực tiễn tại Việt Nam.
Trên cơ sở đó, kiến nghị bổ sung vào khoản 4 Điều 90 Luật Trẻ em năm 2016 theo hướng: “Ủy ban nhân dân cấp xã giao nhiệm vụ cụ thể về thực hiện quyền của trẻ em, bố trí người làm công tác bảo vệ trẻ em trong số các công chức cấp xã hoặc người hoạt động không chuyên trách thuộc quyền quản lý; kịp thời hỗ trợ cha mẹ trong việc giáo dục con khi họ gặp khó khăn không thể tự giải quyết được theo quy định tại khoản 3 Điều 72 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014”. Đồng thời, bổ sung khoản 4 vào Điều 93 Luật Giáo dục năm 2019 theo hướng ghi nhận trách nhiệm của Phòng Văn hóa - Xã hội thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã trong việc hỗ trợ cha mẹ giáo dục con khi họ gặp khó khăn không thể tự giải quyết được. Việc hoàn thiện cơ chế pháp lý trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Luật Trẻ em năm 2016 và Luật Giáo dục năm 2019 sẽ góp phần quan trọng vào việc hiện thực hóa chủ trương đột phá phát triển giáo dục và đào tạo theo tinh thần Nghị quyết số 71-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Kết luận
Giáo dục con là một trong những nghĩa vụ và quyền cơ bản của cha mẹ. Qua nghiên cứu hệ thống pháp luật hiện hành cho thấy, phần lớn các quy định mới thiên về giá trị đạo đức và định hướng hành vi, nhưng thiếu cơ chế ràng buộc trách nhiệm và chế tài đối với trường hợp cha mẹ vi phạm. Bên cạnh đó, thuật ngữ “tạo điều kiện cho con học tập” chưa quy định cụ thể, rõ ràng, dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau; đồng thời, cơ chế phối hợp giữa cha mẹ với nhà trường, cơ quan, tổ chức hữu quan chưa quy định đầy đủ, toàn diện. Do vậy, pháp luật cần được hoàn thiện nhằm xây dựng hành lang pháp lý chặt chẽ, cụ thể và khả thi, từ đó, nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền được giáo dục của trẻ em. Việc sửa đổi, bổ sung các quy định này không chỉ phù hợp với thực tiễn mà còn là bước đi quan trọng để hiện thực hóa các chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục, đào tạo và xây dựng gia đình Việt Nam hạnh phúc, tiến bộ./.
ThS. Ngô Khánh Tùng
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
[1]. Nguyễn Thị Hạnh (2022), Bảo vệ quyền trẻ em theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 90.
[2]. Khoản 1 Điều 79 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[3]. Nguyễn Ngọc Điện (2022), Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình, Tập 1: Các quan hệ nhân thân về gia đình, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 167.
[4]. Đinh Thị Thùy, Đậu Thị Hiền (2022), Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật hiện hành, vướng mắc và kiến nghị, https://tapchitoaan.vn/nghia-vu-cap-duong-nuoi-con-theo-quy-dinh-cua-phap-luat-hien-hanh-vuong-mac-va-kien-nghi6876.html, truy cập ngày 09/8/2025.
[5]. Bảo Minh (2020), Trẻ em lớn lên trong gia đình hạnh phúc thường dễ thành công, https://giaoducthoidai.vn/tre-em-lon-len-trong-gia-dinh-hanh-phuc-thuong-de-thanh-cong-post467856.html, truy cập ngày 08/8/2025.
[6]. Trường Đại học Cần Thơ (2023), Giáo trình Luật Hôn nhân và Gia đình, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 207.
[7]. Lương Thị Thu Trang (2022), Sự phối hợp giữa gia đình và nhà trường trong chăm sóc, giáo dục trẻ em về đạo đức, lối sống, Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, số 11 (479), tr. 57.
[8]. Nguyễn Ngọc Điện, sđd, tr. 170.
[9]. Khoản 2 Điều 65 Bộ luật Gia đình của Cộng hòa Liên bang Nga năm 1995 (sửa đổi, bổ sung năm 2025).
[10]. Khoản 1 Điều 90 Luật Giáo dục năm 2019 quy định: “cha mẹ hoặc người giám hộ có trách nhiệm nuôi dưỡng, giáo dục và chăm sóc, tạo điều kiện cho con hoặc người được giám hộ được học tập, thực hiện phổ cập giáo dục, hoàn thành giáo dục bắt buộc, rèn luyện, tham gia các hoạt động của nhà trường; tôn trọng nhà giáo, không được xúc phạm nhân phẩm, danh dự, xâm phạm thân thể nhà giáo”.
[11]. Khoản 2 Điều 99 Luật Trẻ em năm 2016 (sửa đổi, bổ sung năm 2024) quy định: “cha, mẹ, giáo viên, người chăm sóc trẻ em có trách nhiệm bảo đảm cho trẻ em thực hiện quyền học tập, hoàn thành chương trình giáo dục phổ cập theo quy định của pháp luật, tạo điều kiện cho trẻ em theo học ở trình độ cao hơn”.
[12]. Điều 26 Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền năm 1948 của Liên hợp quốc tuyên bố “cha mẹ có quyền ưu tiên trong việc lựa chọn loại hình giáo dục mà con cái họ sẽ nhận được”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bảo Minh (2020), Trẻ em lớn lên trong gia đình hạnh phúc thường dễ thành công, https://giaoducthoidai.vn/tre-em-lon-len-trong-gia-dinh-hanh-phuc-thuong-de-thanh-cong-post467856.html, truy cập ngày 08/8/2025.
2. Đinh Thị Thùy, Đậu Thị Hiền (2022), Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật hiện hành, vướng mắc và kiến nghị, https://tapchitoaan.vn/nghia-vu-cap-duong-nuoi-con-theo-quy-dinh-cua-phap-luat-hien-hanh-vuong-mac-va-kien-nghi6876.html, truy cập ngày 09/8/2025.
3. Lương Thị Thu Trang (2022), Sự phối hợp giữa gia đình và nhà trường trong chăm sóc, giáo dục trẻ em về đạo đức, lối sống, Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, số 11 (479).
4. Melissa Moschella (2014), Natural Law, Parental Rights and Education Policy, The American Journal of Jurisprudence, Vol. 59, No. 2.
5. Nguyễn Ngọc Điện (2022), Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình, Tập 1: Các quan hệ nhân thân về gia đình, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
6. Nguyễn Thị Hạnh (2022), Bảo vệ quyền trẻ em theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
7. Trường Đại học Cần Thơ (2023), Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số Kỳ 1 (436) tháng 9/2025)