Thứ hai 17/11/2025 20:06
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Cải cách chế độ công chúng tham gia xét xử vụ án hình sự góp phần đáp ứng yêu cầu bảo vệ công lý

Trong bài viết, tác giả phân tích vai trò của việc công chúng tham gia xét xử vụ án hình sự và đánh giá chế độ hội thẩm ở Việt Nam. Trên cơ sở đó sẽ đề xuất một số giải pháp cải cách chế độ công chúng tham gia xét xử nhằm góp phần đáp ứng yêu cầu bảo vệ công lý ở Việt Nam hiện nay.

Hoạt động xét xử, với đặc trưng riêng có của mình, luôn gắn liền với sự tham gia của công chúng. Mức độ tham gia và cách thức tham gia của công chúng như thế nào còn phụ thuộc vào pháp luật mỗi nước. Ở nhiều nước trên thế giới theo hệ thống thông luật Anh - Mỹ, sự tham gia của công chúng được xây dựng thành chế định “bồi thẩm đoàn”. Ở Việt Nam, vấn đề này thể hiện ở chế định “hội thẩm”.

1. Vai trò của việc công chúng tham gia xét xử

Đối với hoạt động xét xử, sự tham gia của công chúng có vai trò sau đây:

Thứ nhất, góp phần bảo đảm tính đồng thuận cho phán quyết của Tòa án

Trong thủ tục tố tụng ở nhiều nước theo hệ thống pháp luật thông luật, chẳng hạn như ở Mỹ, một nguyên tắc cao nhất đối với các hoạt động tố tụng ở Mỹ đó là: “Không được tước đoạt tự do, tính mạng, tài sản của công dân mà không tuân theo những trình tự nhất định”. Trình tự đó chính là các quy định về thủ tục tố tụng và cơ bản được thực hiện bởi hệ thống Toà án. Nguyên tắc này nhằm bảo đảm các quyền tự do cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp. Chỉ có Toà án mới có quyền tước đoạt các quyền của công dân. Những quy định rất quan trọng và điển hình thể hiện vai trò của tố tụng ở Mỹ như: Khi kết tội phải có mặt của bồi thẩm đoàn. Việc xét xử có bồi thẩm đoàn là bắt buộc đối với các vụ án hình sự.

“Ở cấp độ liên bang tất cả những người bị cáo buộc phạm tội đều được bảo đảm theo Tu chính án Hiến pháp thứ năm rằng vụ án của họ sẽ được một đại Bồi thẩm đoàn xem xét. Tuy nhiên, Tòa án tối cao từ chối làm cho quyền lợi này ràng buộc tất cả các bang. Ngày nay, chỉ khoảng một nửa số bang sử dụng đại bồi thẩm đoàn; ở một số bang trong những bang này đại bồi thẩm đoàn chỉ được dùng cho những loại vụ án đặc biệt. Những bang không sử dụng đại Bồi thẩm đoàn sẽ áp dụng một phiên tòa sơ bộ hoặc một phiên thẩm vấn. (Một số bang sử dụng cả hai thủ tục này). Bất cứ phương pháp nào được sử dụng, mục đích cơ bản của khâu này trong thủ tục tố tụng hình sự là để xác định liệu có nguyên nhân hợp lý nào để đưa bị cáo ra phiên tòa chính thức không”[1].

Bồi Thẩm đoàn bao gồm: Đại bồi thẩm đoàn thông thường gồm 23 thành viên (tham gia giải quyết các vụ án đặc biệt nghiêm trọng có hình phạt tử hình) và tiểu bồi thẩm đoàn gồm 12 thành viên (tham gia giải quyết các vụ án không có hình phạt tử hình). Bồi thẩm đoàn có quyền quyết định bị cáo có tội hay không có tội. Khi có đủ 23/23 (đại bồi thẩm đoàn) 12/12 (tiểu bồi thẩm đoàn) bồi thẩm viên nhất trí có tội thì vấn đề hình phạt sẽ được đặt ra và do thẩm phán thực hiện bước tiếp theo. Việc lựa chọn bồi thẩm đoàn hết sức ngẫu nhiên (thông qua danh sách cử tri, danh sách những người được cấp giấy phép lái xe... hoặc có sự kết hợp ngẫu nhiên trong các danh sách).

Chế độ xét xử có bồi thẩm đoàn cũng như vai trò của bồi thẩm ở Mỹ hoàn toàn khác với chế độ hội thẩm ở Việt Nam cũng như chế độ giúp đỡ thẩm phán ở Đức. Có thể hiểu, bồi thẩm đoàn ở Mỹ không phải là thành viên của Hội đồng xét xử mà nó là một cơ quan tiến hành tố tụng độc lập với thẩm phán. Bồi thẩm đoàn xem xét, cân nhắc và đưa ra quyết định đối với vụ án, trên cơ sở quyết định của bồi thẩm đoàn mà thẩm phán đưa ra phán quyết cuối cùng.

Ở Việt Nam, hội thẩm nhân dân là thành viên trong hội đồng xét xử theo thủ tục sơ thẩm. Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm: Một thẩm phán và hai hội thẩm (2/3). Trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì Hội đồng xét xử sơ thẩm có thể gồm hai thẩm phán và ba hội thẩm (3/5). Đối với vụ án có bị cáo về tội mà Bộ luật Hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là tù chung thân, tử hình thì Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm hai thẩm phán và ba hội thẩm[2].

Quy định trên cho thấy cả hội thẩm và thẩm phán là những thành tố hợp thành Hội đồng xét xử. Trong Hội đồng xét xử với hai hội thẩm, một thẩm phán thì thẩm phán giữ vai trò chủ tọa phiên tòa. Phiên tòa ba hội thẩm, hai thẩm phán thì một trong hai thẩm phán sẽ chủ tọa phiên tòa.

Về mặt lý thuyết, sự tham gia của công chúng vào thủ tục tố tụng, đóng vai trò quan trọng để đo lường tính đồng thuận của công chúng đối với phán quyết của Tòa án. Như vậy, xét ở khía cạnh là tính đồng thuận, số lượng công chúng càng nhiều, thì vai trò này càng thể hiện tốt hơn. Như trên đã nói, ở Mỹ, người ta sử dụng 12 bồi thẩm đoàn không phải là sự ngẫu nhiên, mà đều xuất phát từ dụng ý nhất định.

Khi bảo đảm được tính đồng thuận, sẽ phần nào tránh được oan sai trong quá trình xét xử. Điều này cũng đồng thời cho thấy nó sẽ góp phần trong việc bảo vệ công lý.

Thứ hai, sự tham gia của công chúng góp phần bảo đảm tính chính đáng cho phán quyết

Một phán quyết bảo đảm tính chính đáng nghĩa là trong hoàn cảnh cụ thể nhất định, một người bình thường vẫn có thể đủ sức hiểu được hành vi của bị cáo là có tội. Việc lập luận và chứng minh một người thực sự đã phạm tội, phải dựa trên những lập luận giản dị nhất mà một người bình thường đủ năng lực trí tuệ để hiểu nó. Có như thế, ít nhất mới cho chúng ta đủ cơ sở để suy đoán rằng, bị cáo cũng đã hiểu được điều đó nhưng vẫn thực hiện hành vi nên đáng phải trừng phạt. Hoặc chí ít, bị cáo cũng có nghĩa vụ phải hiểu những lý lẽ đó. Từ đây có thể thấy, các bên tranh tụng phải có áp lực tích cực nhất định trong việc sử dụng lý lẽ đối với công chúng để thuyết phục công chúng theo quan điểm của mình. Đặc biệt, đối với bên buộc tội, lý lẽ đưa ra phải thuyết phục theo nghĩa được công chúng hiểu và chấp nhận, chứ không phải theo nghĩa được một chuyên gia, một người am hiểu pháp luật hiểu và chấp nhận. Từ đó cho thấy, việc tham gia của công chúng vào hoạt động xét xử nói chung, trong đó hoạt động xét xử hình sự nói riêng, sẽ đóng vai trò gia tăng tính chính đáng của phán quyết của Tòa án.

Thứ ba, việc tham gia xét xử của công chúng trong xét xử đặt ra trách nhiệm cao hơn, nghiêm túc hơn trong tranh luận và chứng minh, bảo đảm tính khách quan

Tranh luận, về mặt bản chất là nhằm làm rõ các tình tiết để bảo vệ công lý, lẽ phải. Nhưng quan trọng hơn, tranh luận nó là phương tiện để bảo đảm tính ngẫu nhiên của kết quả tranh luận, làm cho phán xét thể hiện tính khách quan tối đa. Tranh luận có thể không phải là phương tiện để đạt được sự thật nhưng tranh luận chắc chắn loại bỏ những yếu tố chủ quan, suy diễn, thù địch, mâu thuẫn… lẫn nhau dẫn đến ra phán quyết thiên vị. Công lý không phải là đi tìm bằng được sự thật trong mọi bản án mà một trong những yêu cầu của công lý là đặt nặng thủ tục trừng phạt. Việc xem xét một người có tội hay không phải theo thủ tục tố tụng, chứ không phải dựa trên sự phỏng đoán. Khi cơ quan buộc tội không chứng minh được thuyết phục, công lý thể hiện ở chỗ, người đó đáng được vô tội. Công lý vẫn có nếu họ thực hiện một hành vi mà trình độ của họ vượt lên cả khả năng chứng minh của cơ quan buộc tội.

2. Một số hạn chế của cơ chế công chúng tham gia xét xử hình sự ở Việt Nam và kiến nghị

2.1. Cơ chế hình thành hội thẩm

Hội thẩm ở Việt Nam là những công dân hội đủ điều kiện sau[3]: (i) Là công dân Việt Nam, trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có uy tín trong cộng đồng dân cư, có tinh thần dũng cảm và kiên quyết bảo vệ công lý, liêm khiết và trung thực; (ii) Có kiến thức pháp luật; (iii) Có hiểu biết xã hội; (iv) Có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao.

“ Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương đề xuất nhu cầu về số lượng, cơ cấu thành phần Hội thẩm đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp lựa chọn và giới thiệu người đủ tiêu chuẩn theo quy định tại Điều 85 của Luật này để Hội đồng nhân dân có thẩm quyền theo luật định bầu Hội thẩm nhân dân;”[4].

Theo tác giả, cơ chế hình thành hội thẩm theo quy trình trên là chưa khoa học, phù hợp. Bởi lẽ, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam không phải là cơ quan nhà nước, cho nên không thể có động lực làm việc này một cách tốt nhất. Đơn giản là chúng ta không thể truy cứu trách nhiệm pháp lý nếu cơ quan này vi phạm các nguyên tắc trong tuyển chọn hội thẩm nhân dân. Hơn thế nữa, hội thẩm nhân dân chúng ta tuyển chọn và chỉ định có tính nội bộ trong đơn vị hành chính cấp tỉnh (nghĩa là địa phương nào có nguồn hội thẩm của địa phương đó), cho nên tính cục bộ là rất cao.

“Hội thẩm nhân dân thực hiện nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân theo phân công của Chánh án Tòa án nơi được bầu làm Hội thẩm nhân dân.”[5]

Thậm chí, suốt cả năm, chỉ một số hội thẩm được mời xét xử vì có mối quan hệ thân thiết với Tòa án. Điều này làm ảnh hưởng đến tính khách quan của hội thẩm khi họ đưa ra những quyết định của mình. Bên cạnh đó, hội thẩm nếu hình thành nội bộ như thế sẽ rất dễ thiên vị do những tình cảm cá nhân, do yếu tố quan hệ xã hội. Thậm chí, họ rất dễ hình thành những mối quan hệ nặng về tình cảm với cơ quan tố tụng, làm ảnh hưởng đến sự khách quan của phán quyết.

Cũng vì lý do này, nếu một bị cáo muốn hối lộ hội thẩm, đương nhiên việc tìm hiểu và xác định hội thẩm nào tham gia xét xử là chuyện rất đơn giản.

Do vậy, theo tác giả, chúng ta cần cải cách theo hướng sử dụng hội thẩm chung của toàn quốc. Định kỳ một hoặc hai năm, sẽ có một đợt tuyển chọn hội thẩm toàn quốc. Người được chọn và ghi tên vào danh sách hội thẩm toàn quốc sẽ có quyền và đồng thời có trách nhiệm tham gia bất cứ một phiên tòa nào, ở bất cứ địa phương nào theo kết quả xác định nào đó (có thể lựa chọn ngẫu nhiên qua máy tính). Khi lựa chọn hội thẩm tham gia một phiên tòa nhất định cần căn cứ vào nhiều yếu tố trong đó cần xem xét đến khoảng cách địa lý, nơi hội thẩm được lựa chọn đang cư trú và nơi diễn ra phiên tòa mà hội thẩm tham gia với tư cách là thành viên của Hội đồng xét xử để giảm thiểu chi phí, thời gian di chuyển... Ngoài ra, việc xem xét đến lĩnh vực công tác mà hội thẩm đang đảm nhiệm hoặc trước đây có đảm nhiệm có liên quan đến bị cáo trong vụ án cũng là một điều rất cần thiết. Có như vậy thì khi tới tham gia Hội đồng xét xử ở một địa phương khác, hội thẩm sẽ khách quan hơn, ít bị chi phối bởi những yếu tố tình cảm, cục bộ địa phương.

Chúng ta cũng cần thành lập một hội đồng, hoặc ủy ban lựa chọn hội thẩm toàn quốc do Chánh án hoặc Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đứng đầu hội đồng. Hội đồng này, theo quy định của luật, phải thực hiện nhiệm vụ tuyển chọn hội thẩm toàn quốc. Cũng theo đó, cần quy định Hội đồng tuyển chọn hội thẩm toàn quốc được quyền cử 05 hội thẩm thích hợp nhất đối với từng vụ án cụ thể. Năm hội thẩm này có trách nhiệm tiếp nhận và nghiên cứu hồ sơ vụ án, có mặt tại địa điểm xét xử đúng thời hạn. Việc lựa chọn 02 hội thẩm này trong số 05 hội thẩm (Hội đồng xét xử 03 người), 03 hội thẩm trong số 05 hội thẩm (Hội đồng xét xử 05 người) phải theo nguyên tắc bốc thăm. Cũng theo đó, việc cử hội thẩm cần bảo đảm tính bảo mật thông tin.

2.2. Về quyền của hội thẩm

Chúng ta nên duy trì một số quyền của hội thẩm theo đúng bản chất của hội thẩm. Hiện nay, quyền xét hỏi của hội thẩm không khác gì so với quyền xét hỏi của thẩm phán và cơ quan buộc tội.

Về mặt bản chất, hội thẩm chỉ nên hỏi để nhận thức đúng hơn, sát hơn những vấn đề đã diễn ra ở phiên tòa. Hội thẩm nếu hỏi những câu chưa xuất hiện ở phiên tòa rất dễ trở thành bên buộc tội. Thực chất hội thẩm là cơ chế sàng lọc thụ động. Bên buộc tội mới có chức năng chứng minh chủ động việc người nào đó có tội hay không? Do đó, theo chúng tôi, giới hạn quyền hỏi của hội thẩm góp phần thể hiện đúng bản chất của hội thầm là trọng tài, mà không thể là bên buộc tội được.

Một trong các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cũng như nguyên tắc trong tố tụng đó là “Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn”[6].

Trường hợp Hội đồng xét xử gồm 03 người (02 hội thẩm, 01 thẩm phán), Hội đồng xét xử 05 người (03 hội thẩm, 02 thẩm phán), thì số lượng hội thẩm trong các phiên tòa sơ thẩm nhiều hơn so với thẩm phán. Một trong các tiêu chuẩn của hội thẩm đó là “có kiến thức pháp luật”[7]. Vậy một người có kiến thức pháp luật được hiểu như thế nào? Thước đo nào dể đánh giá kiến thức pháp luật của họ? Trong quá trình hình thành hội thẩm, việc lựa chọn ứng cử viên để Hội đồng nhân dân bầu sẽ trên cơ sở nào? Thiết nghĩ, các tiêu chuẩn nên được quy định rõ ràng hơn để dễ dàng trong quá trình lựa chọn hội thẩm theo đúng quy định của pháp luật

Có thể nhận thấy, nhiệm vụ được đặt lên hàng đầu của Tòa án hiện nay đó chính là bảo vệ công lý. Sự tham gia của công chúng vào hoạt động xét xử của Tòa án đảm bảo tính chính đáng, tính đồng thuận, tính khách quan cho phán quyết; góp phần bảo vệ sự thật, bảo vệ công lý. Tuy nhiên, thực tế việc tham gia của công chúng trong hoạt động xét xử còn có nhiều điểm hạn chế. Việc cải cách chế độ hội thẩm trong việc hình thành hội thẩm, xác định vai trò của hội thẩm khi tham gia Hội đồng xét xử, quy định cụ thể tiêu chuẩn của hội thẩm, xác định rõ quyền của hội thẩm là điều hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay./.

ThS. Nguyễn Thị Phi Yến


[1] Ấn phẩm của Chương trình Thông tin Quốc tế, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, năm 2004.

[2] Điều 254 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[3] Điều 85 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.

[4] Điều 86 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.

[5] Khoản 2 Điều 84 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.

[6] Khoản 4 Điều 103 Hiến pháp năm 2013.

[7] Khoản 2 Điều 85 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết tập trung nghiên cứu một số học thuyết và phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật, chỉ ra những bất cập tồn tại trong quy định pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam chưa phù hợp với các học thuyết này. Từ đó, nghiên cứu đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng trong thời gian tới.
Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Tóm tắt: Cải cách thủ tục hành chính là yếu tố quan trọng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính, thúc đẩy cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đặc biệt là tạo động lực cho đổi mới sáng tạo. Nghiên cứu này phân tích sự cần thiết của cải cách thủ tục hành chính và thực trạng cải cách thủ tục hành chính ở Việt Nam trong việc khơi thông động lực đổi mới sáng tạo, từ đó, đề xuất giải pháp cải cách.
Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích quá trình phát triển tư tưởng về mối quan hệ giữa luật pháp và kinh tế học, tập trung vào trường phái kinh tế học pháp luật với phương pháp phân tích chi phí - lợi ích làm nổi bật vai trò quan trọng của việc cân nhắc các tác động hành vi cùng hiệu quả phân bổ nguồn lực trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Trên cơ sở đó, đề xuất áp dụng phương pháp kinh tế học pháp luật vào quy trình lập pháp tại Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả, tính minh bạch, sự công bằng xã hội và góp phần thúc đẩy cải cách pháp luật bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chuyển đổi số.
Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Tóm tắt: Tranh chấp lao động cá nhân là tranh chấp phổ biến nhất trong quan hệ lao động và ngày càng diễn biến phức tạp, cùng với đó, nhu cầu về cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả, linh hoạt và bảo đảm quyền lợi cho các bên cũng ngày càng tăng trong lĩnh vực lao động. Trọng tài lao động với tính chất độc lập và được thiết kế theo cơ chế ba bên, có tiềm năng trở thành phương thức giải quyết tranh chấp lao động cá nhân hiệu quả. Bài viết phân tích thực trạng pháp luật hiện hành về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích các dấu hiệu nhận diện đặc trưng của tài sản số, những khó khăn, bất cập khi thiếu khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số, kinh nghiệm của Hoa Kỳ và giá trị tham khảo cho Việt Nam. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng khung pháp lý vững chắc giúp Việt Nam có cơ hội phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực công nghệ, bảo vệ quyền lợi của người sở hữu tài sản số, tận dụng tối đa tiềm năng từ tài sản số và tiếp tục vững bước trên con đường phát triển kinh tế số.
Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Tóm tắt: Bài viết phân tích, làm rõ khái niệm người có ảnh hưởng, tình hình thực tiễn về mô hình quảng cáo thông qua người có ảnh hưởng và các hành vi quảng cáo gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng. Trên cơ sở đó, nghiên cứu phân tích một số hạn chế, bất cập trong quy định pháp luật và đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Tóm tắt: Trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên mới với những yêu cầu đặt ra về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như yêu cầu tháo gỡ những “điểm nghẽn”, “nút thắt” có nguyên nhân từ quy định của pháp luật hiện nay, việc hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án dân sự nói riêng là cấp thiết, đặc biệt, dự án Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) dự kiến được Quốc hội khóa XV thông qua tại kỳ họp thứ 10 vào tháng 10/2025. Trước bối cảnh đó, với vai trò là trụ cột, là nguồn lực chủ yếu để xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới, đồng thời là đội ngũ tiên phong tham gia các lĩnh vực mới, thanh niên ngành thi hành án dân sự cần tiếp tục phát huy vai trò và trách nhiệm trong việc tham gia vào công tác hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự.
Hoạt động giám sát của Quốc hội trong thực hiện điều ước quốc tế - Một số tồn tại, hạn chế và kiến nghị, đề xuất hoàn thiện

Hoạt động giám sát của Quốc hội trong thực hiện điều ước quốc tế - Một số tồn tại, hạn chế và kiến nghị, đề xuất hoàn thiện

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích, đánh giá một số tồn tại, hạn chế trong hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam đối với việc thực hiện điều ước quốc tế, từ đó, đưa ra một số kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, bảo đảm công tác giám sát thực hiện điều ước quốc tế ngày càng đi vào thực chất, hiệu quả.
Khả năng thỏa thuận về thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài - Kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Khả năng thỏa thuận về thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài - Kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Tóm tắt: Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại đề cao quyền tự quyết của các bên, vì thủ tục này chỉ được tiến hành khi các bên có thỏa thuận trọng tài. Cơ chế tự do thỏa thuận đặt ra vấn đề, liệu các bên có được thỏa thuận về thời hiệu khởi kiện để đưa tranh chấp ra giải quyết tại trọng tài hay không? Bài viết phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về khả năng thỏa thuận thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại, so sánh với pháp luật của một số quốc gia về vấn đề này; từ đó, đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật.
Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thế chấp tài sản số từ kinh nghiệm pháp luật quốc tế và một số quốc gia

Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thế chấp tài sản số từ kinh nghiệm pháp luật quốc tế và một số quốc gia

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích một số nội dung cơ bản về thế chấp bằng tài sản số trong pháp luật quốc tế và của một số quốc gia; từ đó, kiến nghị một số chính sách để Việt Nam có thể nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hành lang pháp lý phù hợp, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, giúp kinh tế tư nhân phát triển mạnh và bền vững hơn.
Xây dựng đội ngũ công chức, viên chức tư pháp địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng đội ngũ công chức, viên chức tư pháp địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích một số vấn đề lý luận như khái niệm, quan điểm và yêu cầu đặt ra đối với đội ngũ công chức, viên chức tư pháp địa phương trong bối cảnh hiện nay. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác xây dựng đội ngũ công chức, viên chức tư pháp địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Quy định về quyền bề mặt theo pháp luật dân sự Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện

Quy định về quyền bề mặt theo pháp luật dân sự Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về quyền bề mặt qua các thời kỳ; chỉ ra một số bất cập trong quy định pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về quyền bề mặt ở Việt Nam thời gian qua; từ đó, đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Một số định hướng tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Một số định hướng tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Trước yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, hoàn thiện pháp luật hình sự nói riêng là yêu cầu tất yếu. Bài viết phân tích chính sách, pháp luật hình sự hiện hành và một số yêu cầu đặt ra trong bối cảnh hiện nay, từ đó, đề xuất một số định hướng hoàn thiện pháp luật hình sự đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong tố tụng hình sự Việt Nam

Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong tố tụng hình sự Việt Nam

Xuất phát từ luận điểm quá trình tố tụng hình sự là biểu hiện của việc thực hiện quyền tư pháp trong thực tiễn, bài viết đánh giá thực trạng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về vấn đề này, từ đó, đề xuất một số kiến nghị nhằm tiếp tục kiểm soát có hiệu quả quyền tư pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã chủ nghĩa ở Việt Nam thời gian tới.
Hoàn thiện khung pháp lý về trọng tài thương mại trực tuyến trong điều kiện phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam

Hoàn thiện khung pháp lý về trọng tài thương mại trực tuyến trong điều kiện phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam

Trọng tài thương mại trực tuyến có thể được coi là sự sáng tạo và nâng cấp so với trọng tài thương mại truyền thống, đặc biệt, trong thời đại công nghệ số và phát triển nền kinh tế số, có rất nhiều hợp đồng thương mại được ký kết thông qua chữ ký số, hợp đồng thương mại điện tử… Trọng tài thương mại trực tuyến là phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thông qua ứng dụng công nghệ thông tin và phương thức điện tử. Bài viết nghiên cứu, làm rõ về trọng tài thương mại trực tuyến; nhận diện những thách thức khi áp dụng trọng tài trực tuyến để giải quyết tranh chấp thương mại; từ đó, kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện khung pháp lý về trọng tài thương mại trực tuyến trong điều kiện phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam.

Theo dõi chúng tôi trên:

he-thong-benh-vien-quoc-te-vinmec
nha-hang-thai-village
delta-group
khach-san-ladalat
trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
truong-dai-hoc-y-duoc-dai-hoc-quoc-gia-ha-noi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm
cong-ty-co-phan-loc-hoa-dau-binh-son
sofitel-legend-metropole-ha-noi