Thứ ba 17/06/2025 10:42
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Chấm dứt pháp nhân theo Bộ luật Dân sự năm 2015

Pháp nhân là tổ chức được thành lập một cách hợp pháp, theo cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có tài sản độc lập và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình. Ngoài ra, pháp nhân còn nhân danh chính mình tham gia vào các quan hệ pháp luật độc lập. Pháp nhân là chủ thể của nhiều ngành luật trong đó có luật dân sự.

Hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành không có định nghĩa về pháp nhân, mà chỉ đưa ra các điều kiện để công nhận pháp nhân. Về cơ bản, Bộ luật Dân sự năm 1995, năm 2005 và năm 2015 đều không có sự khác biệt lớn về điều kiện công nhận pháp nhân. Chấm dứt pháp nhân là việc chấm dứt sự tồn tại của một tổ chức với tư cách là một chủ thể độc lập trong các quan hệ pháp luật mà trước đó tổ chức đó tham gia với tư cách pháp nhân. Bài viết đã chỉ ra được những trường hợp chấm dứt pháp nhân theo quy định Bộ luật Dân sự năm 2015 và những vấn đề cần phải làm rõ với hai trường hợp: (i) Đối với trường hợp chuyển đổi hình thức pháp nhân; (ii) Đối với trường hợp chia pháp nhân.

1. Khái quát về pháp nhân

Pháp nhân là một thực thể pháp lý được pháp luật thừa nhận về khả năng thụ hưởng các quyền năng và buộc gánh chịu những nghĩa vụ, đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử. Nhu cầu tạo ra thực thể pháp lý có tư cách chủ thể độc lập với thể nhân là một tất yếu đối với các hệ thống pháp luật. Jean Claude Ricci, Harold Arthur Jonh Ford đã làm rõ rằng: “Việc hình thành pháp nhân làm cho đời sống pháp luật được đơn giản hóa. Pháp nhân cho phép đơn giản hóa pháp luật. Chúng ta hãy đặt giả thiết là không có pháp nhân mà chỉ có các thể nhân. Khi đó, mỗi thể nhân thành viên đều sẽ phải tham gia vào việc ký kết các giao dịch pháp lý. Hậu quả sẽ rất phức tạp; việc hình thành pháp nhân làm cho đời sống pháp luật được ổn định lâu dài. Đây là một yếu tố hết sức quan trọng. Người ta thường hay nói rằng, pháp nhân không gặp phải những thay đổi bất ngờ như thể nhân. Thời gian tồn tại của một pháp nhân thường dài hơn cuộc sống của một con người. Và hoạt động của pháp nhân có thể kéo dài, thậm chí rất dài. Pháp nhân không bị ảnh hưởng bởi những biến cố xảy ra đối với thành viên của nó”[1].

Trong bất kỳ hệ thống pháp luật hoàn chỉnh nào cũng có có nhu cầu tạo ra thực thể pháp lý, có thể thụ hưởng các quyền và chịu nghĩa vụ cơ bản giống như con người, thực thể đó được gọi là pháp nhân[2]. Ở Việt Nam, có lẽ pháp nhân được biết đến đầu tiên là khi người Pháp và người Tây Ban Nha được phép kinh doanh tại Việt Nam trên cơ sở Hòa ước năm Nhâm Tuất do nhà Nguyễn, Pháp và Tây Ban Nha ký ngày 09/5/1862, Bộ luật Thương mại (1807), Luật công ty TNHH (1925) của Pháp được các Tòa án Nam kỳ và Tòa án Pháp ở các thành phố thuộc địa áp dụng trực tiếp. Năm 1931, chúng ta có Bộ Dân luật Bắc Kỳ quy định về pháp nhân và đến năm 1975, Nghị định số 54-CP ngày 10/3/1975 của Hội đồng Chính phủ quy định tư cách pháp nhân của các bên ký kết hợp đồng kinh tế.

Hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành không có định nghĩa về pháp nhân, mà chỉ đưa ra các điều kiện để công nhận pháp nhân. Về cơ bản, Bộ luật Dân sự năm 1995, năm 2005 và năm 2015 đều không có sự khác biệt lớn về điều kiện công nhận pháp nhân. Khi tham gia các hội thảo góp ý xây dựng Bộ luật Dân sự năm 2015, đã có ý kiến cho rằng: “Chưa có một tài liệu thống kê hay công trình nghiên cứu nào cho thấy, thực tiễn có việc áp dụng điều kiện công nhận pháp nhân theo Bộ luật Dân sự, các quy định về điều kiện công nhận pháp nhân theo Bộ luật Dân sự năm 1995 và năm 2005 có lẽ chưa một lần được áp dụng. Bởi vì, tổ chức nào là pháp nhân thì đã được luật chuyên ngành quy định trực tiếp, không ai căn cứ các điều kiện do Bộ luật Dân sự quy định để bác bỏ hoặc đề nghị công nhận tư cách pháp nhân”. Điều này cho thấy, quy định về điều kiện công nhận pháp nhân theo pháp luật hiện hành chỉ mang tính hiệu lực trên giấy.

Về bản chất pháp lý, pháp nhân được tạo lập nên bởi ý chí của thành viên. Pháp luật của một số nước cũng ghi nhận điều này khi quy định về công ty. Ví dụ: Ở Pháp, trừ công ty do một người thành lập, các công ty khác đều được thành lập trên cơ sở ý chí của thành viên, “công ty do hai hay nhiều người thành lập trên cơ sở thỏa thuận bằng hợp đồng về việc đóng góp, sử dụng tài sản hoặc công sức của họ vào hoạt động kinh doanh chung nhằm chia lãi hoặc thu lợi”[3]; Điều 2247 Bộ luật Dân sự của Italia cũng quy định: Thông qua hợp đồng công ty, hai hay nhiều người góp tài sản hay dịch vụ nhằm thực hiện chung một hoạt động kinh tế với mục đích chia sẻ lợi nhuận kiếm được từ hoạt động đó.

Với bản chất pháp lý như trên, pháp nhân phải được chấm dứt bởi ý chí của thành viên hoặc các thành viên. Đây là quyền tự do kinh doanh, một quyền cơ bản được ghi nhận ở hầu hết các quốc gia. Tuy nhiên, tự do ý chí trong xã hội được quản lý bằng pháp luật thì phải trong khuôn khổ những chuẩn mực đã được thừa nhận và áp dụng trên thực tế. Hơn nữa, những người tạo lập pháp nhân cũng có nhu cầu bảo hộ bởi pháp luật, nên việc pháp luật can thiệp để buộc pháp nhân phải chấm dứt khi có những căn cứ pháp luật nhất định là một tất yếu khách quan. Vậy, Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2105 đã quy định về chấm dứt pháp nhân như thế nào?

2. Chấm dứt pháp nhân

Theo Báo cáo tổng hợp ý kiến tham gia dự thảo Bộ luật Dân sự của Văn phòng Quốc hội: “Có ý kiến cho rằng, thời điểm chấm dứt tư cách pháp nhân phải là thời điểm sau khi hoàn tất thủ tục đăng ký chấm dứt pháp nhân và có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận”[4]. Quan điểm này phần nào được tiếp thu khi Điều 96 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về chấm dứt tồn tại pháp nhân: “(1) Pháp nhân chấm dứt tồn tại trong trường hợp sau đây: (a) Hợp nhất, sáp nhập, chia, chuyển đổi hình thức, giải thể pháp nhân theo quy định tại các Điều 88, 89, 90, 92 và 93 của Bộ luật Dân sự; (b) Bị tuyên bố phá sản theo quy định của pháp luật về phá sản; (2) Pháp nhân chấm dứt tồn tại kể từ thời điểm xóa tên trong sổ đăng ký pháp nhân hoặc từ thời điểm được xác định trong quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; (3) Khi pháp nhân chấm dứt tồn tại, tài sản của pháp nhân được giải quyết theo quy định của Bộ luật Dân sự, quy định khác của pháp luật có liên quan”.

Quy định này được đưa ra với cách thức liệt kê các trường hợp, không phản ánh chính xác bản chất pháp lý của chấm dứt pháp nhân. Cụ thể, nhà làm luật liệt kê 6 trường hợp chấm dứt pháp nhân, bao gồm: Hợp nhất, sáp nhập, chia, chuyển đổi hình thức, giải thể và bị tuyên bố phá sản. Tuy nhiên, pháp nhân là thực thể pháp lý, có đời sống pháp luật ổn định và lâu dài, không bị ảnh hưởng bởi những biến cố xảy ra đối với thành viên của nó. Hơn nữa, tư cách pháp nhân được thể hiện bởi kết cấu pháp lý, do vậy, khi thay đổi vỏ bọc vật chất hay chia tách vỏ bọc đó nó cũng không bị ảnh hưởng. Những đặc điểm này cho thấy, các trường hợp chấm dứt pháp nhân được liệt kê nêu trên có nhiều vấn đề phải làm rõ:

Thứ nhất, đối với trường hợp chuyển đổi hình thức pháp nhân

Chuyển đổi hình thức pháp nhân, về bản chất không phải là thành lập lại pháp nhân trên cơ sở pháp nhân được chuyển đổi. Tức là trước và sau khi chuyển đổi nó vẫn là pháp nhân đó. Pháp nhân chuyển đổi với hình thức kết cấu mới, nhưng sản nghiệp không thay đổi. Hơn nữa, pháp nhân chuyển đổi không bị ảnh hưởng đến quyền yêu cầu cũng như nghĩa vụ; người thứ ba cũng không bị chấm dứt hay thay đổi quyền yêu cầu đối với pháp nhân chuyển đổi. Maurice Cozian và Alain Viandier ví von pháp nhân như cái vỏ ốc và hình thức pháp nhân là con dã tràng sống, trong đó “việc cải hóa thông thường là không cần thiết phải lập ra một pháp nhân mới, cũng như không hề gây ra việc giải thể, thanh toán về phân chia tài sản; xí nghiệp tiếp tục hoạt động trong một bộ khung mới: như hình ảnh một giống dã tràng sống trong vỏ ốc, chui từ vỏ ốc này sang vỏ ốc khác trong quá trình sinh trưởng của mình”[5]. TS. Hoàng Anh Tuấn cho rằng: “Chuyển đổi hình thức công ty là chuyển đổi hình thức kết cấu của thương nhân pháp nhân trên cơ sở lựa chọn hoặc theo quy định của pháp luật, không làm chấm dứt hay thay đổi nghĩa vụ trả nợ của thương nhân đó”6. Ở góc nhìn cụ thể, PGS.TS. Ngô Huy Cương nhấn mạnh: “Vấn đề giống như một người đàn ông chuyển đổi giới tính thành đàn bà, sản nghiệp của người đó không thay đổi. Thay vì gọi người đó là ông, thì nay, người ta gọi người đó là bà...”7. Từ phân tích trên cho thấy việc thay đổi hình thức pháp nhân không chấm dứt pháp nhân.

Thứ hai, đối với trường hợp chia pháp nhân

Khác với chuyển đổi hình thức pháp nhân, về bản chất, việc chia pháp nhân là tạo lập ra nhiều pháp nhân từ pháp nhân bị chia. Điều 192 Luật Doanh nghiệp năm 2014 cũng đề cập đến việc chia doanh nghiệp theo bản chất này: “Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần có thể chia các cổ đông, thành viên và tài sản công ty để thành lập hai hoặc nhiều công ty mới”. Mặc dù tạo ra nhiều pháp nhân mới từ pháp nhân bị chia, tuy nhiên, về bản chất, hậu quả pháp lý của việc chia pháp nhân không hoàn toàn làm chấm dứt pháp nhân bị chia. Bởi lẽ: (i) Việc chia pháp nhân không làm thay đổi và ảnh hưởng đến quyền yêu cầu của người thứ ba; (ii) Tổng sản nghiệp không có sự thay đổi; (iii) Các pháp nhân hình thành do chia pháp nhân chỉ thực sự chấm dứt liên đới khi hoàn thành toàn bộ nghĩa vụ của pháp nhân bị chia. Như vậy, quy định chấm dứt đối với trường hợp chia pháp nhân là không phù hợp.

Tóm lại, với cách liệt kê các trường hợp như quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 đã không làm rõ được khái niệm chấm dứt pháp nhân dựa trên các căn cứ pháp lý để làm chấm dứt thực thể pháp lý này một cách thuyết phục.

ThS. Nguyễn Văn Hành

Tài liệu tham khảo:

[1]. Jean-Claude Ricci, 2001, Introduction à l tude du droit, Hachette, 2001 - 2002 (Bản dịch tiếng Việt, Nhà pháp luật Việt Pháp, 2002. tr.105, 106.

[2]. Harold Arthur Jonh Ford, Principles of Company Law, Butterworths, 1990, p 2.

[3]. Bộ luật Dân sự Pháp, Điều 1832.

[4]. Văn phòng Quốc hội, Báo cáo tổng hợp ý kiến tham gia dự thảo Bộ luật Dân sự .

[5]. Maurice cozian, Alain Viandier, Tổ chức công ty, tập 1, Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp, tháng 12/1989. tr 185.

[6]. Hoàng Anh Tuấn, Chuyển đổi hình thức công ty theo pháp luật Việt Nam, Luận án Tiến sĩ 2012.

[7]. PGS,TS. Ngô Huy Cương, Chế định pháp nhân trong dự thảo BLDS sửa đổi, 2015, tr. 16.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Khi thực hiện sắp xếp các đơn vị hành chính và thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp, việc đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động của chính quyền địa phương nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, thích ứng với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới là điều cần thiết. Các địa phương sau sắp xếp đứng trước những yêu cầu cấp thiết về đổi mới, vận hành hiệu quả mô hình tổ chức chính quyền địa phương. Bài viết đề xuất một số kiến nghị để tiếp tục đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động chính quyền địa phương, góp phần bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của nền công vụ trong bối cảnh mới.
Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 194/2025/QH15 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo cơ sở pháp lý thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Bài viết nghiên cứu, phân tích về những nội dung cần bổ sung vào chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để thực hiện việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đang lấy ý kiến nhân dân để thực hiện các chủ trương của Đảng về việc sắp xếp lại chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, không tổ chức cấp huyện. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi bộ máy hành chính phải được tổ chức khoa học, tinh, gọn, minh bạch, hiệu quả nhằm tạo đà cho đất nước phát triển càng trở lên cấp thiết. Xuất phát từ thực trạng tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã và đòi hỏi của thực tiễn, bài viết đề xuất một số gợi mở về đổi mới tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã trong thời gian tới.
Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội như hiện nay, việc tổ chức lại bộ máy chính quyền theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (dự thảo Nghị quyết) là yêu cầu tất yếu. Điều này đòi hỏi phải cải cách toàn diện cả về cấu trúc chiều ngang (sáp nhập địa giới hành chính) và chiều dọc (rút gọn cấp chính quyền trung gian) nhằm mở rộng không gian phát triển, tăng cường tính liên kết giữa trung ương và cơ sở, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân. Bài viết nghiên cứu mô hình tổ chức chính quyền địa phương gắn với địa bàn cụ thể dưới góc nhìn từ cơ sở (Tây Nguyên) để đưa ra những phân tích, nhận định và đề xuất giải pháp cho việc cải cách chính quyền địa phương theo dự thảo Nghị quyết.
So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

Bài viết phân tích, nghiên cứu thiết chế chính quyền địa phương ở Cộng hòa Pháp và Việt Nam; so sánh một số điểm tương đồng, khác biệt về tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương theo hiến pháp của hai nước. Trên cơ sở mô hình tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương của Cộng hòa Pháp, bài viết đề xuất một số kiến nghị để Việt Nam nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cuộc “cách mạng” về tinh gọn bộ máy theo các chủ trương, chính sách của Đảng và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.
Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử. Trên cơ sở nhận diện những khó khăn, vướng mắc, bài viết đề xuất các khuyến nghị để xây dựng khung pháp lý toàn diện, hiệu quả hơn trong việc tích hợp trí tuệ nhân tạo vào công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời gian tới.

Trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bài viết phân tích, đánh giá một số khía cạnh pháp lý, kinh tế của chế độ trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện về chế độ trách nhiệm hữu hạn trong pháp luật doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam.

Hoàn thiện quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dùng vào việc thờ cúng

Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng qua các thời kỳ và thực tiễn áp dụng pháp luật qua công tác xét xử của Tòa án đối với tranh chấp liên quan đến chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng, từ đó, đưa ra một số gợi mở nhằm hoàn thiện chế định này.
Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Sau hơn 11 năm triển khai thi hành, Hiến pháp năm 2013 đã tạo cơ sở hiến định quan trọng cho việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Bên cạnh những kết quả đạt được, hiện nay, việc thực hiện các quy định của Hiến pháp và pháp luật liên quan đến Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và chính quyền địa phương vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện nhằm để đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Ủy ban Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 ban hành Kế hoạch tổ chức lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Việc lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết nhằm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, huy động trí tuệ, tâm huyết và tạo sự đồng thuận, thống nhất cao của toàn dân trong việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013, bảo đảm Hiến pháp phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của Nhân dân.
Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013 là một sự kiện chính trị và pháp lý trọng đại, dù ở phạm vi, quy mô nào cũng là một công việc rất hệ trọng, thiêng liêng. Do vậy, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp phải được tiến hành thận trọng, khách quan, dân chủ, khoa học, hiệu quả với sự tham gia tích cực, đồng bộ của các cơ quan, tổ chức, các chuyên gia, nhà khoa học và toàn thể Nhân dân theo đúng chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính  – bổ sung nhiều quy định mới

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính – bổ sung nhiều quy định mới

Trên cơ sở phát biểu đề dẫn của đồng chí Trương Thế Côn, Tổng Biên tập Tạp chí Dân chủ và pháp luật, phát biểu của đồng chí Hồ Quang Huy, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính về sự cần thiết, quá trình soạn thảo và định hướng xây dựng Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm pháp luật hành chính, Hội thảo khoa học “Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi pham hành chính” đã tiếp nhận được gần 20 ý kiến phát biểu và hơn 10 bài nghiên cứu chuyên sâu. Các bài viết và ý kiến phát biểu tại Hội thảo sẽ được Tạp chí Dân chủ và Pháp luật và Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính tổng hợp, xem xét để gửi tới cá nhân, cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong quá trình xây dựng, quyết định chính sách.
Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp.
Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp  nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV khai mạc sáng ngày 05/5/2025. Đây là Kỳ họp có nhiều nội dung quan trọng, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII - Hội nghị lịch sử, bàn về những quyết sách lịch sử trong giai đoạn Cách mạng mới của nước ta, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm