Chủ nhật 14/12/2025 04:37
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Chế tài thương mại - Những vấn đề đặt ra trong quá trình sửa đổi Luật Thương mại năm 2005

Chế tài thương mại - Những vấn đề đặt ra trong quá trình sửa đổi Luật Thương mại năm 2005

Để hoàn thiện hệ thống pháp lý khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), ngày 14/6/2005, Quốc hội thông qua Luật Thương mại gồm 09 chương, 324 điều thay thế Luật Thương mại năm 1997. Luật Thương mại năm 2005 có nhiều điểm mới so với Luật Thương mại năm 1997, trong đó có các quy định về chế tài thương mại. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để các bên giải quyết các xung đột phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng thương mại. Sau đó, Luật Thương mại năm 2005 được sửa đổi, bổ sung bởi Luật Quản lý ngoại thương năm 2017 và Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia năm 2019 (sau đây gọi là Luật Thương mại). Tuy nhiên, qua nghiên cứu, tác giả nhận thấy, một số quy định tại mục 1 Chương VII của Luật Thương mại về chế tài trong thương mại không còn đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn và cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.

Thứ nhất, về tên gọi của mục 1 Chương VII “Chế tài trong thương mại”

Trong khoa học pháp lý, thuật ngữ “chế tài” bắt nguồn từ tiếng La tinh là Sanctio (phán quyết nghiêm khắc nhất), theo nghĩa nguyên thủy là hình thức trừng phạt nghiêm khắc nhất dành cho những người vi phạm luật lệ. Ngày nay, thuật ngữ “chế tài” được sử dụng rộng rãi trong khoa học pháp lý và thường được sử dụng trong các văn bản pháp luật như hình sự, hành chính… mang tính chất áp đặt, mệnh lệnh của quyền lực nhà nước đối với các tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm xâm phạm đến các quan hệ, trật tự xã hội do Nhà nước quản lý. Trong tiếng Anh, thuật ngữ “chế tài thương mại” có tên gọi là “Trade sanctions”. Với cách hiểu như trên, thì chế tài trong thương mại là hình thức cưỡng chế của Nhà nước đối với người có hành vi vi phạm pháp luật thương mại. Chế tài thương mại xác định hậu quả pháp lý bất lợi ngoài mong muốn được áp dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật thương mại khi họ không thực hiện, thực hiện không đúng các nghĩa vụ phát sinh từ hoạt động thương mại.

Luật Thương mại không đưa ra giải thích từ ngữ “chế tài trong thương mại” nhưng tại Điều 292 liệt kê các loại chế tài trong thương mại như: Buộc thực hiện đúng hợp đồng; phạt vi phạm; buộc bồi thường thiệt hại; tạm ngừng thực hiện hợp đồng; đình chỉ thực hiện hợp đồng; hủy bỏ hợp đồng; các biện pháp khác do các bên thỏa thuận không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và tập quán thương mại quốc tế. Theo khoản 12 Điều 3 Luật Thương mại, “vi phạm hợp đồng là việc một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thoả thuận giữa các bên hoặc theo quy định của Luật này”.

Theo các quy định trên, khi một bên vi phạm hợp đồng thì sẽ bị áp dụng một trong những chế tài thương mại quy định tại Điều 292 Luật Thương mại. Tuy nhiên, trong quy định của Điều 292 Luật Thương mại, có nhiều chế tài không phải do Nhà nước thực hiện áp đặt, cưỡng chế đối với bên vi phạm hợp đồng mà có thể do bên có quyền lợi bị vi phạm áp dụng đối với bên vi phạm hợp đồng.

Bộ luật Dân sự năm 2015 khi quy định chế định hợp đồng cũng đưa ra các biện pháp xử lý khi khi một bên vi phạm hợp đồng như hủy hợp đồng, bồi thường thiệt hại, thỏa thuận phạt vi phạm. Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự năm 2015 không xem xét dưới góc độ là chế tài mà quy định dưới hình thức xử lý các tình huống phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng.

Tác giả cho rằng, tên gọi “Chế tài trong thương mại” còn mang nặng tính can thiệp của quyền lực nhà nước và mang tính áp đặt cho quan hệ thương mại. Trong khi việc xử lý các tình huống phát sinh khi một bên vi phạm hợp đồng trong quá trình thực hiện hợp đồng chủ yếu do các bên trong hợp đồng thương mại thực hiện. Tính quyền lực hay Nhà nước chỉ can thiệp khi các bên khởi kiện ra Tòa án hoặc trọng tài thương mại. Do đó, theo tác giả, cần sửa đổi tên gọi của mục 1 Chương VII thành “Các biện pháp bảo đảm thực hiện trong thương mại” hoặc “Thực hiện hợp đồng thương mại” để phù hợp với tính chất của quan hệ thương mại.

Thứ hai, về mức phạt vi phạm tại Điều 301 Luật Thương mại

Khoản 2 Điều 418 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định, mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.

Điều 301 Luật Thương mại quy định, mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy định tại Điều 266 của Luật này.

Theo quy định trên, mức phạt vi phạm trong hợp đồng thương mại do các bên thỏa thuận trong hợp đồng nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm trừ trường hợp phạt vi phạm trong trường hợp kết quả giám định sai quy định tại Điều 266 Luật Thương mại.

Qua rà soát, tác giả nhận thấy, khoản 2 Điều 146 Luật Xây dựng năm 2014 về phạt hợp đồng xây dựng quy định mức phạt cho phép không vượt quá 12% giá trị phần hợp đồng bị vi phạm đối với công trình xây dựng sử dụng vố nhà nước mức phạt hợp đồng không vượt quá 12% giá trị phần hợp đồng bị vi phạm. Ngoài mức phạt theo thỏa thuận, bên vi phạm hợp đồng còn phải bồi thường thiệt hại cho bên kia, bên thứ ba (nếu có) theo quy định của Luật này và pháp luật có liên quan khác.

Đối với nội dung này, tại mục 7 phần III Hướng dẫn số 20/HD-VKSTC ngày 23/02/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về hoạt động phát biểu của kiểm sát viên khi tham gia phiên tòa xét xử vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động đã hướng dẫn: “Khi xem xét mức phạt do vi phạm hợp đồng trong lĩnh vực xây dựng cần lưu ý áp dụng luật chuyên ngành là Luật Xây dựng năm 2014 (khoản 2 Điều 146) và Nghị định số 37/2015/NĐ-CP ngày 22/4/2015 của Chính phủ quy định chi tiết về hợp đồng xây dựng có mức phạt vi phạm tối đa không quá 12% giá trị vi phạm.

Việc áp dụng pháp luật khi phát biểu, kiểm sát viên phải lưu ý áp dụng luật chuyên ngành là Luật Xây dựng, các văn bản hướng dẫn thi hành (nay là Luật Xây dựng năm 2014, Nghị định số 37/2015/NĐ-CP quy định chi tiết về hợp đồng xây dựng...) và các luật chuyên ngành về giám định”.

Tác giả đồng ý với hướng dẫn của Viện kiểm sát nhân dân tối cao dựa trên nguyên tắc áp dụng văn bản pháp luật quy định tại Điều 156 Luật Ban hành văn bản pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020). Tuy nhiên, để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật, khi sửa đổi Luật Thương mại cần sửa đổi quy định về mức phạt để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật và các trường hợp khác phát sinh có thể xảy ra.

Mặt khác, Bộ Công Thương cũng cần xem xét, đánh giá tác động về việc đưa ra cơ sở khoa học, thực tiễn về giới hạn không được vượt quá 8% để phù hợp thực tiễn và bảo đảm được nguyên tắc tự do thỏa thuật, định đoạt trong quan hệ hợp đồng như Điều 418 Bộ luật Dân sự năm 2015; đồng thời xử lý trường hợp các bên có thỏa thuận về mức phạt vi phạm trong hợp đồng nhưng vượt quá mức phạt pháp luật quy định để tránh cách hiểu, cách áp dụng không thống nhất về thỏa thuận vô hiệu hoặc vô hiệu một phần đối với mức phạt vi phạm vượt quá mức pháp luật quy định như thời gian qua. Quy định về mức phạt vi phạm phải bảo đảm nguyên tắc từ do thỏa thuận, tự do định đoạt. Nhà nước không can thiệp vào mức phạt vi phạm vì sẽ không bảo đảm, bảo vệ được lợi ích chính đáng của các bên và sự công bằng trong quan hệ thương mại. Theo đó, Luật Thương mại cũng chỉ quy định mang tính nguyên tắc như Bộ luật Dân sự để bảo đảm nguyên tắc này và chỉ những trường hợp đặc biệt (như trường hợp hợp đồng xây dựng sử dụng vốn nhà nước) mà Nhà nước thấy cần thiết, cần can thiệp để giới hạn mức phạt vi phạm thì luật chuyên ngành sẽ quy định điều này.

Thứ ba, về áp dụng chế tài thương mại đối với vi phạm không cơ bản tại Điều 293 Luật Thương mại

Theo quy định tại Điều 3 Luật Thương mại, vi phạm hợp đồng là việc một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thoả thuận giữa các bên hoặc theo quy định của Luật này (khoản 12); vi phạm cơ bản là sự vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng (khoản 13). Điều 293 Luật Thương mại quy định, trừ trường hợp có thoả thuận khác, bên bị vi phạm không được áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc huỷ bỏ hợp đồng đối với vi phạm không cơ bản.

Theo quy định trên, khi một bên có hành vi vi phạm gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng thì có thể áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc hủy bỏ thực hiện hợp đồng.

Theo Báo cáo số 151/BC-BTP ngày 15/7/2013 của Bộ Tư pháp[1] về tình hình xử lý vi phạm hợp đồng có nêu: Thực tế hiện nay cho thấy, rất nhiều hợp đồng dễ dàng bị một trong các bên tuyên bố huỷ bỏ hoặc đơn phương chấm dứt chỉ vì bên kia vi phạm một điều khoản nào đó của hợp đồng. Điều này gây nên sự bất ổn định cho các giao dịch và tốn kém khi mà một bên có thể sử dụng sự vi phạm không đáng kể của phía bên kia để chấm dứt hợp đồng. Do đó, Bộ luật Dân sự cần phải quy định rõ chỉ khi có những vi phạm nghiêm trọng, làm cho mục đích của việc giao kết hợp đồng không đạt được thì hợp đồng mới bị chấm dứt.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 423 Bộ luật Dân sự năm 2015, vi phạm nghiêm trọng là việc không thực hiện đúng nghĩa vụ của một bên đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng. Theo đó, chỉ cần một bên không thực hiện đúng nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng thì một bên có quyền chấm dứt, hủy bỏ hợp đồng. Tuy nhiên, nếu căn cứ khoản 13 Điều 3 Luật Thương mại, thì khi phát sinh hậu quả “gây thiệt hại” cho bên kia, bên còn lại mới có quyền chấm dứt, hủy bỏ hợp đồng về những thiệt hại mà hành vi vi phạm đó gây ra.

Tác giả cho rằng, Luật Thương mại cần sử dụng thuật ngữ thống nhất với Bộ luật Dân sự năm 2015 và quy định theo hướng nguyên tắc khi hành vi vi phạm làm mục đích giao kết hợp đồng không đạt được thì chấp nhận hướng xử lý hủy, chấm dứt hợp đồng mà không cần phải chứng minh những thiệt hại do hành vi vi phạm đó gây ra.

NCS. Phạm Văn Bằng

Cục Điều tra chống buôn lậu, Tổng cục Hải quan

Ảnh: internet


[1] https://duthaoonline.quochoi.vn/Pages/dsduthao/chitietduthao.aspx?id=588.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Một số vướng mắc, bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển

Một số vướng mắc, bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển

Tóm tắt: Trong kinh tế tri thức, tài sản trí tuệ là yếu tố then chốt góp phần quan trọng nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển tư nhân. Bài viết nghiên cứu một số bất cập về pháp luật sở hữu trí tuệ, từ đó, đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện khung pháp lý và cơ chế thực thi quyền sở hữu trí tuệ, đồng thời, đưa ra giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp trong việc khai thác hiệu quả giá trị kinh tế của tài sản trí tuệ, góp phần thúc đẩy đổi mới sáng tạo và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số - thách thức và giải pháp

Bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số - thách thức và giải pháp

Tóm tắt: Kỷ nguyên số đã và đang tạo nhiều cơ hội để tiếp cận các tác phẩm ngày càng dễ dàng hơn với nhiều phương thức khác nhau. Tuy nhiên, thời đại kỷ nguyên số cũng đặt ra không ít thách thức trong việc bảo hộ quyền tác giả như sự xuất hiện của những loại hình tác phẩm mới, sự ra đời của những tác phẩm do trí tuệ nhân tạo (AI) tạo ra, sự gia tăng nhanh chóng của các hành vi xâm phạm với sự trợ giúp đắc lực của mạng internet cùng các công nghệ mới… Bài viết phân tích những thách thức về bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số, đồng thời đề xuất một số giải pháp cho Việt Nam về vấn đề này.
Pháp luật về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc và một số kiến nghị hoàn thiện

Pháp luật về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc và một số kiến nghị hoàn thiện

Tóm tắt: Quấy rối tình dục tại nơi làm việc ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe về thể chất, tinh thần và tâm lý của người lao động, khiến cho hiệu quả công việc của họ bị giảm sút và môi trường làm việc trở nên thiếu an toàn. Do vậy, pháp luật quốc tế và pháp luật nhiều quốc gia đều có quy định để bảo đảm môi trường làm việc lành mạnh cũng như bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Pháp luật Việt Nam cũng đã đặt ra các quy định để ngăn ngừa, hạn chế quấy rối tình dục tại nơi làm việc. Bài viết tập trung làm rõ những vấn đề pháp lý về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc trên phương diện pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, qua đó đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này ở Việt Nam.
Hoàn thiện quy định pháp luật về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp gắn với bảo vệ hoạt động kinh doanh

Hoàn thiện quy định pháp luật về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp gắn với bảo vệ hoạt động kinh doanh

Tóm tắt: Thi hành án dân sự nhanh, hiệu quả góp phần bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các bên có liên quan, xây dựng môi trường kinh doanh bình đẳng. Để bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp, thúc đẩy hoạt động kinh doanh lành mạnh, bài viết nghiên cứu, phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về trình tự, thủ tục thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp, chỉ ra những hạn chế, bất cập có thể cản trở hoạt động kinh doanh. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự theo hướng vừa bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thi hành án, vừa tạo điều kiện để doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của khu vực kinh tế tư nhân trong bối cảnh hiện nay.
Định giá tài sản kê biên trong thi hành án dân sự - Bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Định giá tài sản kê biên trong thi hành án dân sự - Bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Tóm tắt: Định giá tài sản kê biên có vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công tác thi hành án dân sự. Vì vậy, để góp phần nâng cao tính minh bạch, hiệu quả và công bằng trong hoạt động thi hành án dân sự, bài viết phân tích các quy định hiện hành của Luật Thi hành án dân sự về định giá tài sản kê biên, chỉ ra những hạn chế, bất cập còn tồn tại trong thực tiễn áp dụng, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này.
Tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh và kinh nghiệm cho Việt Nam

Tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh và kinh nghiệm cho Việt Nam

Tóm tắt: Vương quốc Anh là quốc gia theo hệ thống Common Law, có tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự khá khác biệt so với các nước theo truyền thống Civil Law, trong đó đề cao tính xã hội hóa trong hoạt động thi hành án dân sự. Trong quá trình phát triển, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh có một số cải cách, giúp cho hoạt động này ngày càng hiệu quả, phù hợp với thể chế chính trị, điều kiện kinh tế - xã hội. Do đó, việc nghiên cứu làm rõ một số cải cách trong hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh, từ đó, đưa ra một số đề xuất, kiến nghị để nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự tại Việt Nam là cần thiết.
Hoàn thiện pháp luật về thông báo thi hành án từ góc độ quyền và nghĩa vụ của đương sự

Hoàn thiện pháp luật về thông báo thi hành án từ góc độ quyền và nghĩa vụ của đương sự

Tóm tắt: Thông báo thi hành án là thủ tục không thể thiếu trong từng giai đoạn của quá trình tổ chức thi hành án dân sự. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành về thông báo thi hành án còn tồn tại một số bất cập, hạn chế như chưa tương xứng giữa quyền với nghĩa vụ của đương sự, giữa trách nhiệm với quyền hạn của cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên và chủ yếu được thực hiện theo hình thức thông báo trực tiếp… Bài viết phân tích pháp luật thực định và thực tiễn thi hành, từ đó, đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật liên quan đến thông báo thi hành án để phù hợp thực tiễn, đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con

Hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích những bất cập trong quy định của pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật để thúc đẩy quyền được giáo dục của con trong gia đình được thực hiện hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển của trẻ em và xã hội trong bối cảnh hiện nay.
Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết tập trung nghiên cứu một số học thuyết và phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật, chỉ ra những bất cập tồn tại trong quy định pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam chưa phù hợp với các học thuyết này. Từ đó, nghiên cứu đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng trong thời gian tới.
Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Tóm tắt: Cải cách thủ tục hành chính là yếu tố quan trọng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính, thúc đẩy cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đặc biệt là tạo động lực cho đổi mới sáng tạo. Nghiên cứu này phân tích sự cần thiết của cải cách thủ tục hành chính và thực trạng cải cách thủ tục hành chính ở Việt Nam trong việc khơi thông động lực đổi mới sáng tạo, từ đó, đề xuất giải pháp cải cách.
Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích quá trình phát triển tư tưởng về mối quan hệ giữa luật pháp và kinh tế học, tập trung vào trường phái kinh tế học pháp luật với phương pháp phân tích chi phí - lợi ích làm nổi bật vai trò quan trọng của việc cân nhắc các tác động hành vi cùng hiệu quả phân bổ nguồn lực trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Trên cơ sở đó, đề xuất áp dụng phương pháp kinh tế học pháp luật vào quy trình lập pháp tại Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả, tính minh bạch, sự công bằng xã hội và góp phần thúc đẩy cải cách pháp luật bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chuyển đổi số.
Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Tóm tắt: Tranh chấp lao động cá nhân là tranh chấp phổ biến nhất trong quan hệ lao động và ngày càng diễn biến phức tạp, cùng với đó, nhu cầu về cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả, linh hoạt và bảo đảm quyền lợi cho các bên cũng ngày càng tăng trong lĩnh vực lao động. Trọng tài lao động với tính chất độc lập và được thiết kế theo cơ chế ba bên, có tiềm năng trở thành phương thức giải quyết tranh chấp lao động cá nhân hiệu quả. Bài viết phân tích thực trạng pháp luật hiện hành về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích các dấu hiệu nhận diện đặc trưng của tài sản số, những khó khăn, bất cập khi thiếu khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số, kinh nghiệm của Hoa Kỳ và giá trị tham khảo cho Việt Nam. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng khung pháp lý vững chắc giúp Việt Nam có cơ hội phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực công nghệ, bảo vệ quyền lợi của người sở hữu tài sản số, tận dụng tối đa tiềm năng từ tài sản số và tiếp tục vững bước trên con đường phát triển kinh tế số.
Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Tóm tắt: Bài viết phân tích, làm rõ khái niệm người có ảnh hưởng, tình hình thực tiễn về mô hình quảng cáo thông qua người có ảnh hưởng và các hành vi quảng cáo gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng. Trên cơ sở đó, nghiên cứu phân tích một số hạn chế, bất cập trong quy định pháp luật và đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Tóm tắt: Trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên mới với những yêu cầu đặt ra về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như yêu cầu tháo gỡ những “điểm nghẽn”, “nút thắt” có nguyên nhân từ quy định của pháp luật hiện nay, việc hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án dân sự nói riêng là cấp thiết, đặc biệt, dự án Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) dự kiến được Quốc hội khóa XV thông qua tại kỳ họp thứ 10 vào tháng 10/2025. Trước bối cảnh đó, với vai trò là trụ cột, là nguồn lực chủ yếu để xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới, đồng thời là đội ngũ tiên phong tham gia các lĩnh vực mới, thanh niên ngành thi hành án dân sự cần tiếp tục phát huy vai trò và trách nhiệm trong việc tham gia vào công tác hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự.

Theo dõi chúng tôi trên: