Thứ năm 19/06/2025 10:49
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Chế tài thương mại - Những vấn đề đặt ra trong quá trình sửa đổi Luật Thương mại năm 2005

Chế tài thương mại - Những vấn đề đặt ra trong quá trình sửa đổi Luật Thương mại năm 2005

Để hoàn thiện hệ thống pháp lý khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), ngày 14/6/2005, Quốc hội thông qua Luật Thương mại gồm 09 chương, 324 điều thay thế Luật Thương mại năm 1997. Luật Thương mại năm 2005 có nhiều điểm mới so với Luật Thương mại năm 1997, trong đó có các quy định về chế tài thương mại. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để các bên giải quyết các xung đột phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng thương mại. Sau đó, Luật Thương mại năm 2005 được sửa đổi, bổ sung bởi Luật Quản lý ngoại thương năm 2017 và Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia năm 2019 (sau đây gọi là Luật Thương mại). Tuy nhiên, qua nghiên cứu, tác giả nhận thấy, một số quy định tại mục 1 Chương VII của Luật Thương mại về chế tài trong thương mại không còn đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn và cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.

Thứ nhất, về tên gọi của mục 1 Chương VII “Chế tài trong thương mại”

Trong khoa học pháp lý, thuật ngữ “chế tài” bắt nguồn từ tiếng La tinh là Sanctio (phán quyết nghiêm khắc nhất), theo nghĩa nguyên thủy là hình thức trừng phạt nghiêm khắc nhất dành cho những người vi phạm luật lệ. Ngày nay, thuật ngữ “chế tài” được sử dụng rộng rãi trong khoa học pháp lý và thường được sử dụng trong các văn bản pháp luật như hình sự, hành chính… mang tính chất áp đặt, mệnh lệnh của quyền lực nhà nước đối với các tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm xâm phạm đến các quan hệ, trật tự xã hội do Nhà nước quản lý. Trong tiếng Anh, thuật ngữ “chế tài thương mại” có tên gọi là “Trade sanctions”. Với cách hiểu như trên, thì chế tài trong thương mại là hình thức cưỡng chế của Nhà nước đối với người có hành vi vi phạm pháp luật thương mại. Chế tài thương mại xác định hậu quả pháp lý bất lợi ngoài mong muốn được áp dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật thương mại khi họ không thực hiện, thực hiện không đúng các nghĩa vụ phát sinh từ hoạt động thương mại.

Luật Thương mại không đưa ra giải thích từ ngữ “chế tài trong thương mại” nhưng tại Điều 292 liệt kê các loại chế tài trong thương mại như: Buộc thực hiện đúng hợp đồng; phạt vi phạm; buộc bồi thường thiệt hại; tạm ngừng thực hiện hợp đồng; đình chỉ thực hiện hợp đồng; hủy bỏ hợp đồng; các biện pháp khác do các bên thỏa thuận không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và tập quán thương mại quốc tế. Theo khoản 12 Điều 3 Luật Thương mại, “vi phạm hợp đồng là việc một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thoả thuận giữa các bên hoặc theo quy định của Luật này”.

Theo các quy định trên, khi một bên vi phạm hợp đồng thì sẽ bị áp dụng một trong những chế tài thương mại quy định tại Điều 292 Luật Thương mại. Tuy nhiên, trong quy định của Điều 292 Luật Thương mại, có nhiều chế tài không phải do Nhà nước thực hiện áp đặt, cưỡng chế đối với bên vi phạm hợp đồng mà có thể do bên có quyền lợi bị vi phạm áp dụng đối với bên vi phạm hợp đồng.

Bộ luật Dân sự năm 2015 khi quy định chế định hợp đồng cũng đưa ra các biện pháp xử lý khi khi một bên vi phạm hợp đồng như hủy hợp đồng, bồi thường thiệt hại, thỏa thuận phạt vi phạm. Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự năm 2015 không xem xét dưới góc độ là chế tài mà quy định dưới hình thức xử lý các tình huống phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng.

Tác giả cho rằng, tên gọi “Chế tài trong thương mại” còn mang nặng tính can thiệp của quyền lực nhà nước và mang tính áp đặt cho quan hệ thương mại. Trong khi việc xử lý các tình huống phát sinh khi một bên vi phạm hợp đồng trong quá trình thực hiện hợp đồng chủ yếu do các bên trong hợp đồng thương mại thực hiện. Tính quyền lực hay Nhà nước chỉ can thiệp khi các bên khởi kiện ra Tòa án hoặc trọng tài thương mại. Do đó, theo tác giả, cần sửa đổi tên gọi của mục 1 Chương VII thành “Các biện pháp bảo đảm thực hiện trong thương mại” hoặc “Thực hiện hợp đồng thương mại” để phù hợp với tính chất của quan hệ thương mại.

Thứ hai, về mức phạt vi phạm tại Điều 301 Luật Thương mại

Khoản 2 Điều 418 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định, mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác.

Điều 301 Luật Thương mại quy định, mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy định tại Điều 266 của Luật này.

Theo quy định trên, mức phạt vi phạm trong hợp đồng thương mại do các bên thỏa thuận trong hợp đồng nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm trừ trường hợp phạt vi phạm trong trường hợp kết quả giám định sai quy định tại Điều 266 Luật Thương mại.

Qua rà soát, tác giả nhận thấy, khoản 2 Điều 146 Luật Xây dựng năm 2014 về phạt hợp đồng xây dựng quy định mức phạt cho phép không vượt quá 12% giá trị phần hợp đồng bị vi phạm đối với công trình xây dựng sử dụng vố nhà nước mức phạt hợp đồng không vượt quá 12% giá trị phần hợp đồng bị vi phạm. Ngoài mức phạt theo thỏa thuận, bên vi phạm hợp đồng còn phải bồi thường thiệt hại cho bên kia, bên thứ ba (nếu có) theo quy định của Luật này và pháp luật có liên quan khác.

Đối với nội dung này, tại mục 7 phần III Hướng dẫn số 20/HD-VKSTC ngày 23/02/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về hoạt động phát biểu của kiểm sát viên khi tham gia phiên tòa xét xử vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động đã hướng dẫn: “Khi xem xét mức phạt do vi phạm hợp đồng trong lĩnh vực xây dựng cần lưu ý áp dụng luật chuyên ngành là Luật Xây dựng năm 2014 (khoản 2 Điều 146) và Nghị định số 37/2015/NĐ-CP ngày 22/4/2015 của Chính phủ quy định chi tiết về hợp đồng xây dựng có mức phạt vi phạm tối đa không quá 12% giá trị vi phạm.

Việc áp dụng pháp luật khi phát biểu, kiểm sát viên phải lưu ý áp dụng luật chuyên ngành là Luật Xây dựng, các văn bản hướng dẫn thi hành (nay là Luật Xây dựng năm 2014, Nghị định số 37/2015/NĐ-CP quy định chi tiết về hợp đồng xây dựng...) và các luật chuyên ngành về giám định”.

Tác giả đồng ý với hướng dẫn của Viện kiểm sát nhân dân tối cao dựa trên nguyên tắc áp dụng văn bản pháp luật quy định tại Điều 156 Luật Ban hành văn bản pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020). Tuy nhiên, để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật, khi sửa đổi Luật Thương mại cần sửa đổi quy định về mức phạt để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật và các trường hợp khác phát sinh có thể xảy ra.

Mặt khác, Bộ Công Thương cũng cần xem xét, đánh giá tác động về việc đưa ra cơ sở khoa học, thực tiễn về giới hạn không được vượt quá 8% để phù hợp thực tiễn và bảo đảm được nguyên tắc tự do thỏa thuật, định đoạt trong quan hệ hợp đồng như Điều 418 Bộ luật Dân sự năm 2015; đồng thời xử lý trường hợp các bên có thỏa thuận về mức phạt vi phạm trong hợp đồng nhưng vượt quá mức phạt pháp luật quy định để tránh cách hiểu, cách áp dụng không thống nhất về thỏa thuận vô hiệu hoặc vô hiệu một phần đối với mức phạt vi phạm vượt quá mức pháp luật quy định như thời gian qua. Quy định về mức phạt vi phạm phải bảo đảm nguyên tắc từ do thỏa thuận, tự do định đoạt. Nhà nước không can thiệp vào mức phạt vi phạm vì sẽ không bảo đảm, bảo vệ được lợi ích chính đáng của các bên và sự công bằng trong quan hệ thương mại. Theo đó, Luật Thương mại cũng chỉ quy định mang tính nguyên tắc như Bộ luật Dân sự để bảo đảm nguyên tắc này và chỉ những trường hợp đặc biệt (như trường hợp hợp đồng xây dựng sử dụng vốn nhà nước) mà Nhà nước thấy cần thiết, cần can thiệp để giới hạn mức phạt vi phạm thì luật chuyên ngành sẽ quy định điều này.

Thứ ba, về áp dụng chế tài thương mại đối với vi phạm không cơ bản tại Điều 293 Luật Thương mại

Theo quy định tại Điều 3 Luật Thương mại, vi phạm hợp đồng là việc một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thoả thuận giữa các bên hoặc theo quy định của Luật này (khoản 12); vi phạm cơ bản là sự vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng (khoản 13). Điều 293 Luật Thương mại quy định, trừ trường hợp có thoả thuận khác, bên bị vi phạm không được áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc huỷ bỏ hợp đồng đối với vi phạm không cơ bản.

Theo quy định trên, khi một bên có hành vi vi phạm gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng thì có thể áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc hủy bỏ thực hiện hợp đồng.

Theo Báo cáo số 151/BC-BTP ngày 15/7/2013 của Bộ Tư pháp[1] về tình hình xử lý vi phạm hợp đồng có nêu: Thực tế hiện nay cho thấy, rất nhiều hợp đồng dễ dàng bị một trong các bên tuyên bố huỷ bỏ hoặc đơn phương chấm dứt chỉ vì bên kia vi phạm một điều khoản nào đó của hợp đồng. Điều này gây nên sự bất ổn định cho các giao dịch và tốn kém khi mà một bên có thể sử dụng sự vi phạm không đáng kể của phía bên kia để chấm dứt hợp đồng. Do đó, Bộ luật Dân sự cần phải quy định rõ chỉ khi có những vi phạm nghiêm trọng, làm cho mục đích của việc giao kết hợp đồng không đạt được thì hợp đồng mới bị chấm dứt.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 423 Bộ luật Dân sự năm 2015, vi phạm nghiêm trọng là việc không thực hiện đúng nghĩa vụ của một bên đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng. Theo đó, chỉ cần một bên không thực hiện đúng nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng thì một bên có quyền chấm dứt, hủy bỏ hợp đồng. Tuy nhiên, nếu căn cứ khoản 13 Điều 3 Luật Thương mại, thì khi phát sinh hậu quả “gây thiệt hại” cho bên kia, bên còn lại mới có quyền chấm dứt, hủy bỏ hợp đồng về những thiệt hại mà hành vi vi phạm đó gây ra.

Tác giả cho rằng, Luật Thương mại cần sử dụng thuật ngữ thống nhất với Bộ luật Dân sự năm 2015 và quy định theo hướng nguyên tắc khi hành vi vi phạm làm mục đích giao kết hợp đồng không đạt được thì chấp nhận hướng xử lý hủy, chấm dứt hợp đồng mà không cần phải chứng minh những thiệt hại do hành vi vi phạm đó gây ra.

NCS. Phạm Văn Bằng

Cục Điều tra chống buôn lậu, Tổng cục Hải quan

Ảnh: internet


[1] https://duthaoonline.quochoi.vn/Pages/dsduthao/chitietduthao.aspx?id=588.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Khi thực hiện sắp xếp các đơn vị hành chính và thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp, việc đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động của chính quyền địa phương nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, thích ứng với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới là điều cần thiết. Các địa phương sau sắp xếp đứng trước những yêu cầu cấp thiết về đổi mới, vận hành hiệu quả mô hình tổ chức chính quyền địa phương. Bài viết đề xuất một số kiến nghị để tiếp tục đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động chính quyền địa phương, góp phần bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của nền công vụ trong bối cảnh mới.
Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 194/2025/QH15 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo cơ sở pháp lý thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Bài viết nghiên cứu, phân tích về những nội dung cần bổ sung vào chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để thực hiện việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đang lấy ý kiến nhân dân để thực hiện các chủ trương của Đảng về việc sắp xếp lại chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, không tổ chức cấp huyện. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi bộ máy hành chính phải được tổ chức khoa học, tinh, gọn, minh bạch, hiệu quả nhằm tạo đà cho đất nước phát triển càng trở lên cấp thiết. Xuất phát từ thực trạng tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã và đòi hỏi của thực tiễn, bài viết đề xuất một số gợi mở về đổi mới tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã trong thời gian tới.
Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội như hiện nay, việc tổ chức lại bộ máy chính quyền theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (dự thảo Nghị quyết) là yêu cầu tất yếu. Điều này đòi hỏi phải cải cách toàn diện cả về cấu trúc chiều ngang (sáp nhập địa giới hành chính) và chiều dọc (rút gọn cấp chính quyền trung gian) nhằm mở rộng không gian phát triển, tăng cường tính liên kết giữa trung ương và cơ sở, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân. Bài viết nghiên cứu mô hình tổ chức chính quyền địa phương gắn với địa bàn cụ thể dưới góc nhìn từ cơ sở (Tây Nguyên) để đưa ra những phân tích, nhận định và đề xuất giải pháp cho việc cải cách chính quyền địa phương theo dự thảo Nghị quyết.
So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

Bài viết phân tích, nghiên cứu thiết chế chính quyền địa phương ở Cộng hòa Pháp và Việt Nam; so sánh một số điểm tương đồng, khác biệt về tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương theo hiến pháp của hai nước. Trên cơ sở mô hình tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương của Cộng hòa Pháp, bài viết đề xuất một số kiến nghị để Việt Nam nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cuộc “cách mạng” về tinh gọn bộ máy theo các chủ trương, chính sách của Đảng và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.
Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử. Trên cơ sở nhận diện những khó khăn, vướng mắc, bài viết đề xuất các khuyến nghị để xây dựng khung pháp lý toàn diện, hiệu quả hơn trong việc tích hợp trí tuệ nhân tạo vào công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời gian tới.

Trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bài viết phân tích, đánh giá một số khía cạnh pháp lý, kinh tế của chế độ trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện về chế độ trách nhiệm hữu hạn trong pháp luật doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam.

Hoàn thiện quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dùng vào việc thờ cúng

Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng qua các thời kỳ và thực tiễn áp dụng pháp luật qua công tác xét xử của Tòa án đối với tranh chấp liên quan đến chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng, từ đó, đưa ra một số gợi mở nhằm hoàn thiện chế định này.
Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Sau hơn 11 năm triển khai thi hành, Hiến pháp năm 2013 đã tạo cơ sở hiến định quan trọng cho việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Bên cạnh những kết quả đạt được, hiện nay, việc thực hiện các quy định của Hiến pháp và pháp luật liên quan đến Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và chính quyền địa phương vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện nhằm để đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Ủy ban Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 ban hành Kế hoạch tổ chức lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Việc lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết nhằm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, huy động trí tuệ, tâm huyết và tạo sự đồng thuận, thống nhất cao của toàn dân trong việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013, bảo đảm Hiến pháp phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của Nhân dân.
Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013 là một sự kiện chính trị và pháp lý trọng đại, dù ở phạm vi, quy mô nào cũng là một công việc rất hệ trọng, thiêng liêng. Do vậy, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp phải được tiến hành thận trọng, khách quan, dân chủ, khoa học, hiệu quả với sự tham gia tích cực, đồng bộ của các cơ quan, tổ chức, các chuyên gia, nhà khoa học và toàn thể Nhân dân theo đúng chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính  – bổ sung nhiều quy định mới

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính – bổ sung nhiều quy định mới

Trên cơ sở phát biểu đề dẫn của đồng chí Trương Thế Côn, Tổng Biên tập Tạp chí Dân chủ và pháp luật, phát biểu của đồng chí Hồ Quang Huy, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính về sự cần thiết, quá trình soạn thảo và định hướng xây dựng Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm pháp luật hành chính, Hội thảo khoa học “Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi pham hành chính” đã tiếp nhận được gần 20 ý kiến phát biểu và hơn 10 bài nghiên cứu chuyên sâu. Các bài viết và ý kiến phát biểu tại Hội thảo sẽ được Tạp chí Dân chủ và Pháp luật và Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính tổng hợp, xem xét để gửi tới cá nhân, cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong quá trình xây dựng, quyết định chính sách.
Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp.
Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp  nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV khai mạc sáng ngày 05/5/2025. Đây là Kỳ họp có nhiều nội dung quan trọng, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII - Hội nghị lịch sử, bàn về những quyết sách lịch sử trong giai đoạn Cách mạng mới của nước ta, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm