Thứ sáu 13/06/2025 10:03
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Đàm phán là biện pháp tối ưu trong việc giải quyết tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông

Trong bối cảnh Trung Quốc ngày càng quyết đoán và ngang ngược trong việc đòi chủ quyền và làm thay đổi hiện trạng các đảo ở Biển Đông, thì vấn đề tranh chấp càng trở nên phức tạp, có nguy cơ thổi bùng xung đột địa chính trị.

Trong bối cảnh Trung Quốc ngày càng quyết đoán và ngang ngược trong việc đòi chủ quyền và làm thay đổi hiện trạng các đảo ở Biển Đông, thì vấn đề tranh chấp càng trở nên phức tạp, có nguy cơ thổi bùng xung đột địa chính trị. Hành động của Trung Quốc được thể hiện qua việc Quốc Vụ Viện Trung Quốc ra Nghị quyết thành lập thành phố Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam vào tháng 11 năm 2007; tuyên bố yêu sách đường lưỡi bò vào tháng 5 năm 2009 chiếm hơn 80 % diện tích Biển Đông. Cùng với đó là việc gia tăng tần suất sử dụng các biện pháp để hỗ trợ cho mục tiêu xác lập chủ quyền của Trung Quốc, như: Gây sức ép đến một số công ty đa quốc gia đang hợp tác thăm dò và khai thác dầu khí với Việt Nam và Phi-líp-pin, tiến hành nhiều cuộc tập trận với quy mô lớn trên Biển Đông, thực hiện lệnh cấm bắt cá hàng năm và quấy nhiễu ngư dân các nước hoạt động hợp pháp trên vùng biển của mình, hạ đặt giàn khoan trái phép tại vùng đặc quyền kinh tế và gần đây là những hành động “ráo riết” cải tạo, xây dựng đảo nhân tạo của Trung Quốc tại Hoàng Sa, Trường Sa,… Vì vậy, việc nghiên cứu, xác định một phương thức giúp các quốc gia tìm kiếm giải pháp khả quan trong giải quyết tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông đang là vấn đề hết sức cấp thiết ở thời điểm hiện nay.

Tính tới thời điểm hiện tại, có nhiều tranh chấp quốc tế trên biển, tuy nhiên, các tranh chấp phức tạp, kéo dài thường rơi vào những loại tranh chấp như: Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ; tranh chấp trong việc hoạch định ranh giới biển và thềm lục địa chồng lấn... Luật quốc tế chưa quy định cụ thể một giải pháp nhất định nào cho việc giải quyết tranh chấp quốc tế mà chỉ nêu lên một số phương thức thông dụng dành cho các quốc gia quyền tự do lựa chọn những phương pháp hòa bình khác hợp lý, có lợi và chấp nhận được. Một số phương thức nhằm giải quyết tranh chấp mà chúng ta có thể phân loại thành các nhóm sau: Thứ nhất, giải quyết tranh chấp thông qua phương thức phi tài phán. Ở phương thức này, các biện pháp thường được đề cập đến đó là: Đàm phán, thương lượng; môi giới, trung gian, hòa giải; ủy ban điều tra và ủy ban hòa giải quốc tế; trong khuôn khổ các tổ chức quốc tế và biện pháp ngoại giao công chúng,… Thứ hai, giải quyết tranh chấp thông qua phương thức tài phán như trọng tài quốc tế, tòa án quốc tế. Tuy nhiên, do tính chất phức tạp của các tranh chấp trên biển, nên dưới góc độ bài viết này, tác giả chỉ đề cập đến vấn đề giải quyết tranh chấp chủ quyền lãnh thổ thông qua biện pháp đàm phán như một giải pháp tối ưu hiện nay cho các quốc gia tranh chấp ở biển Đông.

Hiện tại, chưa có một khái niệm nhất quán nào về đàm phán và pháp luật quốc tế cũng chưa có quy định cụ thể về quy trình, thủ tục pháp lý khi tiến hành quá trình đàm phán để giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trên biển. Tuy nhiên trong bối cảnh quốc tế hiện nay, thì đàm phán là một thuật ngữ thường được nhắc tới và sử dụng phổ biến trong đời sống quốc tế, nhất là trong quá trình đàm phán ngoại giao giữa các quốc gia trên thế giới bởi tính chất linh hoạt của biện pháp này. Các quốc gia có thể tiến hành đàm phán để giải quyết bất kỳ tranh chấp nào phát sinh với một hay nhiều quốc gia khác mà không phụ thuộc vào bản chất hay nội dung của tranh chấp là gì (có thể là kinh tế, chính trị, lãnh thổ hay biên giới). Hơn thế nữa, các quốc gia không bị ràng buộc bởi các quy trình, thủ tục nghiêm ngặt như đối với các biện pháp tài phán mà hoàn toàn có thể tiến hành theo mong muốn, ý chí của các bên có liên quan. Trong quá trình tiếp xúc trực tiếp, các bên hữu quan có khả năng tìm hiểu lập trường của nhau rõ ràng hơn và bằng thiện chí, có thể đi đến những giải pháp thỏa đáng cho tất cả các bên. Trong nhiều trường hợp, đàm phán không nhất thiết phải đi đến một giải pháp cuối cùng, mà đơn thuần đóng vai trò như một diễn đàn chung để các bên liên quan trao đổi ý kiến, xác định các vấn đề chưa đạt được nhất trí chung cũng như thảo luận, đàm phán những vấn đề cốt lõi và thủ tục cho việc áp dụng các biện pháp giải quyết tranh chấp khác về sau. Chính sự linh hoạt và tự do khá lớn mà các quốc gia có được trong quá trình áp dụng, biện pháp đàm phán được áp dụng phổ biến hơn các biện pháp khác và thường mang lại hiệu quả trong việc giải quyết các tranh chấp giữa các bên. Có thể thấy được điều này thông qua thống kê các hiệp định (hay điều ước) phân định trên biển tính đến ngày 25/11/2014 dưới đây [1]:

- Khu vực Châu Phi: 29 hiệp định đã ký kết (chiếm 11,7%);

- Khu vực Châu Á: 53 hiệp định đã ký kết (chiếm 21,4%);

- Khu vực Châu Âu: 93 hiệp định đã ký kết (37,6%);

- Khu vực Châu Mỹ: 50 hiệp định đã ký kết (20,2);

- Khu vực Châu Đại Dương: 22 hiệp định đã ký kết (8,9).

Như vậy, rất nhiều tranh chấp về phân định trên biển đã được giải quyết thông qua con đường đàm phán và kết quả được thể hiện qua các hiệp định. Với việc nhận thức đúng về biện pháp đàm phán - một biện pháp phổ biến, hiệu quả và linh hoạt nhất, nên hầu hết các khu vực, đặc biệt khu vực Châu Âu đã sử dụng phổ biến biện pháp này.

Tại sao ở thời điểm hiện tại, đàm phán lại là một giải pháp tối ưu cho Việt Nam, một quốc gia đang sử sụng mọi biện pháp hòa bình để bảo vệ chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trước các quốc gia và vùng lãnh thổ khác như: Trung Quốc, Phi-líp-pin, Mai-lai-xia, Bru-nây, Đài Loan? Có lẽ là bởi những lý do sau:

- Xuất phát từ thẩm quyền của Tòa án quốc tế, Việt Nam khó có thể khởi kiện các bên tranh chấp (đặc biệt là Trung Quốc) ra Tòa án quốc tế, (bao gồm: Tòa án quốc tế (ICJ), Tòa án Quốc tế về Luật biển (thành lập theo Phụ lục VI Công ước quốc tế về Luật Biển năm 1982) và Tòa án đặc biệt (phụ lục VIII Công ước quốc tế về Luật Biển năm 1982),… để yêu cầu giải quyết các tranh chấp trên Biển Đông. Theo truyền thống, hầu hết những tranh chấp chủ quyền lãnh thổ của các quốc gia trên thế giới đều được đưa ra Tòa án Công lý Quốc tế (ICJ). Tuy nhiên, theo quy định của Hiến chương Liên Hợp quốc và quy chế Tòa án quốc tế của Liên Hợp quốc, ICJ chỉ giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia khi có yêu cầu và các quốc gia đó đều đã chấp nhận thẩm quyền giải quyết của ICJ [2]. Trên thực tế, Việt Nam và các bên tranh chấp chưa ký kết điều ước quốc tế nào có quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp tại ICJ. Hơn nữa, kể cả việc khi đã đưa ra Tòa án quốc tế thì việc phải tuân thủ nguyên tắc pacta sunt servanda (tận tâm, thiện chí thực hiện các cam kết quốc tế) thì khả năng rủi ro rất cao, có thể nếu thắng sẽ được tất cả nhưng cũng có thể bị thua và mất tất cả. Trong trường hợp này, có lẽ chúng ta chưa không nên mạo hiểm đặt cược chủ quyền của quốc gia vào sự phán xét của Tòa án và chắc chắn thời gian theo đuổi vụ kiện sẽ không phải là ngắn.

- Các biện pháp phi tài phán khác ngoài đàm phán như thương lượng; môi giới, trung gian, hòa giải; ủy ban điều tra và ủy ban hòa giải quốc tế; trong khuôn khổ các tổ chức quốc tế và biện pháp ngoại giao công chúng cũng là những biện pháp quan trọng trong quá trình giải quyết tranh chấp, song chúng chỉ là một trong các biện pháp bổ trợ cho biện pháp đàm phán mà thôi. Thực tế thống kê về các vụ tranh chấp biển, thì chưa có vụ tranh chấp nào chỉ sử dụng đơn thuần một trong các biện pháp trên.

- Trong khi đó, việc sử dụng biện pháp đàm phán (có thể là song phương hoặc đa phương) trong việc giải quyết tranh chấp trên Biển Đông sẽ làm sáng tỏ những bất đồng, là cơ hội, điều kiện thuận lợi nhất để các bên tranh chấp bày tỏ quan điểm, lập trường, yêu sách của mình về vấn đề tranh chấp và cùng nhau thương lượng, nhượng bộ để giải quyết. Hơn thế nữa, trong quá trình đàm phán sẽ giúp Việt Nam hoàn toàn kiểm soát được nội dung, thủ tục và tiến trình giải quyết tranh chấp mà không bị cuốn vào quá trình tố tụng kéo dài. Và trong khi vấn đề chủ quyền giữa các quốc gia trên biển chưa được giải quyết triệt để thì sử dụng biện pháp đàm phán để giải quyết là một trong những hướng đi đúng đắn giúp Việt Nam tranh thủ sự ủng hộ của dư luận quốc tế, từ đó có thể xây dựng các đối sách phù hợp đồng thời có thời gian củng cố thêm cơ sở pháp lý để bảo vệ quan điểm chính đáng của mình và phản bác những lập luận, yêu sách sai trái của đối phương.

Chủ trương của Việt Nam là bảo vệ vững chắc chủ quyền và lợi ích của quốc gia trên Biển Đông; giữ gìn môi trường thuận lợi cho phát triển đất nước, giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp quốc, Công ước quốc tế của Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982 và “Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông” (DOC). Thực tế, Việt Nam đã và đang thực hiện rất tích cực biện pháp đàm phán và cần tiếp tục kiên trì thực hiện trong tương lai

Để biện pháp đàm phán mang lại hiệu quả cao nhất trong quá trình giải quyết tranh chấp, chúng ta cần chú ý các vấn đề sau:

Một là, cần tôn trọng các nguyên tắc, tuân thủ quy định của pháp luật quốc tế một các đúng đắn, phù hợp dù muốn hay không, luật pháp hiện hành đóng vai trò chi phối trong việc giải quyết vấn đề phân định ranh giới biển là Công ước của Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Đây là một bài học quan trọng đã được Đại sứ ArifHavas Oegroseno, nguyên Vụ trưởng Vụ Pháp luật quốc tế, Bộ Ngoại giao In-đô-nê-xi-a và hiện là Đại sứ của In-đô-nê-xi-a tại Bỉ rút ra từ kinh nghiệm giải quyết thông qua quá trình đàm phán để phân định biển giữa In-đô-nê-xi-a và Phi-lip-pin để đi đến một kết quả cuối cùng là Hiệp định phân định biển giữa hai quốc gia được ký kết vào ngày 23/5/2010 [3].

Hai là, việc đàm phán cần được tiến hành hết sức linh hoạt dựa trên điều kiện thực tế của việc giải quyết tranh chấp, không nên giữ quan điểm cứng nhắc. Trong các cuộc đàm phán để tiến tới giải pháp phân định cuối cùng, nếu cần thiết và dựa trên sự đồng ý của các bên, Việt Nam có thể cùng các nước lựa chọn tiến hành các biện pháp tạm thời theo tinh thần của Điều 74, Điều 83 Công ước Quốc tế về Luật Biển (về hoạch định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế giữa các quốc gia có bờ biển tiếp liền hay đối diện nhau và hoạch định ranh giới thềm lục địa giữa các quốc gia có bờ biển tiếp liền hay đối diện nhau).

Ba là, vận dụng và học hỏi kinh nghiệm thực tiễn từ việc phân định biển của các nước khác, cần phải nhận rõ những thách thức, nắm bắt đúng thời cơ để vận dụng cho phù hợp với hoàn cảnh thực tại.

Bốn là, khẩn trương nhưng không chủ quan, nóng vội trong đàm phán phân định biển để có thể tận dụng hết mọi khả năng cũng như cơ hội mà mình có được.

Năm là, thường xuyên tổ chức các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc giữa lãnh đạo cấp cao cũng như các cấp của hai nước, tăng cường mối quan hệ và hiểu biết lẫn nhau để có thể thông cảm và tạo điều kiện thuận lợi cùng nhau đi đến thống nhất chung.

Sáu là, tích cực tham gia vào các vòng đàm phán song phương cũng như đa phương để tìm kiếm các giải pháp hòa bình giúp giải quyết tranh chấp Biển Đông .

Bảy là, do hoàn cảnh hiện nay các nước khu vực Biển Đông đều có lợi ích từ vùng biển này nên trong đàm phán cần biết cân đối lợi ích giữa các bên để có thể đem đến một sự công bằng tương đối cũng như bảo vệ được lợi ích hợp pháp của quốc gia mình.

Tám là, trong đàm phán cần có lập trường vững vàng cũng như thái độ rõ ràng, dứt khoát để kiên quyết phản đối những hành vi vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của các quốc gia.

Chín là, cần thỏa thuận các điều khoản là chế tài ràng buộc nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia ký kết nhằm giúp các điều ước đó thực hiện và có ý nghĩa cũng như giá trị thật sự trên thực tế.

Cuối cùng, cần đặc biệt lưu ý chuẩn bị hồ sơ đàm phán, nhất là hồ sơ pháp lý một cách đầy đủ, chặt chẽ, khách quan, khoa học… nhằm có đủ luận cứ, luận chứng để bảo vệ các quan điểm chính đáng của mình và phản bác những lập luận, yêu sách sai trái của đối phương.

Nguyễn Thị Hải Yến

Nhà xuất bản Tư pháp

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 194/2025/QH15 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo cơ sở pháp lý thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Bài viết nghiên cứu, phân tích về những nội dung cần bổ sung vào chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để thực hiện việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đang lấy ý kiến nhân dân để thực hiện các chủ trương của Đảng về việc sắp xếp lại chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, không tổ chức cấp huyện. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi bộ máy hành chính phải được tổ chức khoa học, tinh, gọn, minh bạch, hiệu quả nhằm tạo đà cho đất nước phát triển càng trở lên cấp thiết. Xuất phát từ thực trạng tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã và đòi hỏi của thực tiễn, bài viết đề xuất một số gợi mở về đổi mới tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã trong thời gian tới.
Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội như hiện nay, việc tổ chức lại bộ máy chính quyền theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (dự thảo Nghị quyết) là yêu cầu tất yếu. Điều này đòi hỏi phải cải cách toàn diện cả về cấu trúc chiều ngang (sáp nhập địa giới hành chính) và chiều dọc (rút gọn cấp chính quyền trung gian) nhằm mở rộng không gian phát triển, tăng cường tính liên kết giữa trung ương và cơ sở, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân. Bài viết nghiên cứu mô hình tổ chức chính quyền địa phương gắn với địa bàn cụ thể dưới góc nhìn từ cơ sở (Tây Nguyên) để đưa ra những phân tích, nhận định và đề xuất giải pháp cho việc cải cách chính quyền địa phương theo dự thảo Nghị quyết.
So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

Bài viết phân tích, nghiên cứu thiết chế chính quyền địa phương ở Cộng hòa Pháp và Việt Nam; so sánh một số điểm tương đồng, khác biệt về tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương theo hiến pháp của hai nước. Trên cơ sở mô hình tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương của Cộng hòa Pháp, bài viết đề xuất một số kiến nghị để Việt Nam nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cuộc “cách mạng” về tinh gọn bộ máy theo các chủ trương, chính sách của Đảng và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.
Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử. Trên cơ sở nhận diện những khó khăn, vướng mắc, bài viết đề xuất các khuyến nghị để xây dựng khung pháp lý toàn diện, hiệu quả hơn trong việc tích hợp trí tuệ nhân tạo vào công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời gian tới.

Trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bài viết phân tích, đánh giá một số khía cạnh pháp lý, kinh tế của chế độ trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện về chế độ trách nhiệm hữu hạn trong pháp luật doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam.

Hoàn thiện quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dùng vào việc thờ cúng

Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng qua các thời kỳ và thực tiễn áp dụng pháp luật qua công tác xét xử của Tòa án đối với tranh chấp liên quan đến chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng, từ đó, đưa ra một số gợi mở nhằm hoàn thiện chế định này.
Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Sau hơn 11 năm triển khai thi hành, Hiến pháp năm 2013 đã tạo cơ sở hiến định quan trọng cho việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Bên cạnh những kết quả đạt được, hiện nay, việc thực hiện các quy định của Hiến pháp và pháp luật liên quan đến Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và chính quyền địa phương vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện nhằm để đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Ủy ban Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 ban hành Kế hoạch tổ chức lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Việc lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết nhằm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, huy động trí tuệ, tâm huyết và tạo sự đồng thuận, thống nhất cao của toàn dân trong việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013, bảo đảm Hiến pháp phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của Nhân dân.
Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013 là một sự kiện chính trị và pháp lý trọng đại, dù ở phạm vi, quy mô nào cũng là một công việc rất hệ trọng, thiêng liêng. Do vậy, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp phải được tiến hành thận trọng, khách quan, dân chủ, khoa học, hiệu quả với sự tham gia tích cực, đồng bộ của các cơ quan, tổ chức, các chuyên gia, nhà khoa học và toàn thể Nhân dân theo đúng chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính  – bổ sung nhiều quy định mới

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính – bổ sung nhiều quy định mới

Trên cơ sở phát biểu đề dẫn của đồng chí Trương Thế Côn, Tổng Biên tập Tạp chí Dân chủ và pháp luật, phát biểu của đồng chí Hồ Quang Huy, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính về sự cần thiết, quá trình soạn thảo và định hướng xây dựng Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm pháp luật hành chính, Hội thảo khoa học “Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi pham hành chính” đã tiếp nhận được gần 20 ý kiến phát biểu và hơn 10 bài nghiên cứu chuyên sâu. Các bài viết và ý kiến phát biểu tại Hội thảo sẽ được Tạp chí Dân chủ và Pháp luật và Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính tổng hợp, xem xét để gửi tới cá nhân, cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong quá trình xây dựng, quyết định chính sách.
Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp.
Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp  nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV khai mạc sáng ngày 05/5/2025. Đây là Kỳ họp có nhiều nội dung quan trọng, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII - Hội nghị lịch sử, bàn về những quyết sách lịch sử trong giai đoạn Cách mạng mới của nước ta, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.

Bàn về các xu hướng phát triển của pháp luật Việt Nam trong kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Các xu hướng phát triển pháp luật là biểu hiện các quy luật phát triển pháp luật có ý nghĩa phương pháp luận, lý luận và thực tiễn quan trọng, gắn liền với việc xây dựng chiến lược phát triển pháp luật ở nước ta; các xu hướng phát triển pháp luật chịu sự tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau. Bài viết nghiên cứu, tìm hiểu các xu hướng phát triển pháp luật Việt Nam trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm