Thứ ba 17/06/2025 11:43
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Địa vị pháp lý của chủ nợ theo Luật Phá sản năm 2014

Trong quá trình giải quyết phá sản đối với một doanh nghiệp, chủ thể có quyền lợi bị ảnh hưởng nhiều nhất là các chủ nợ. Do đó, việc xác định đúng địa vị pháp của chủ nợ trong các quy định pháp luật về phá sản là vô cùng quan trọng. Cùng với quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về phá sản ở Việt Nam, địa vị pháp lý của chủ nợ cũng được quan tâm và có nhiều thay đổi cho phù hợp với bối cảnh kinh tế - xã hội cũng như hài hòa lợi ích của doanh nghiệp và chủ nợ.

Trong quá trình giải quyết phá sản đối với một doanh nghiệp, chủ thể có quyền lợi bị ảnh hưởng nhiều nhất là các chủ nợ. Do đó, việc xác định đúng địa vị pháp của chủ nợ trong các quy định pháp luật về phá sản là vô cùng quan trọng. Cùng với quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về phá sản ở Việt Nam, địa vị pháp lý của chủ nợ cũng được quan tâm và có nhiều thay đổi cho phù hợp với bối cảnh kinh tế - xã hội cũng như hài hòa lợi ích của doanh nghiệp và chủ nợ. Luật Phá sản năm 2014 đã có những quy định thể hiện địa vị pháp lý của chủ nợ trong việc giải quyết phá sản doanh nghiệp. Cụ thể:

Thứ nhất, Điều 5 Luật Phá sản năm 2014 quy định: Chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Như vậy, so với Luật Phá sản năm 2004, Luật Phá sản năm 2014 cũng quy định chỉ có chủ nợ không có bảo đảm hoặc chủ nợ có bảo đảm một phần mới có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Quy định này là phù hợp nhằm bảo đảm lợi ích cho chính chủ nợ cũng như sự công bằng với chính doanh nghiệp mắc nợ. Trên thực tế, có nhiều trường hợp chủ nợ có bảo đảm toàn bộ có thể chuyển thành chủ nợ có bảo đảm một phần hoặc chủ nợ không có bảo đảm khi giá trị tài sản bảo đảm bị giảm sút do biến động của thị trường hoặc hao mòn, hư hỏng trong quá trình sử dụng. Tuy nhiên, để có thể chuyển đổi từ chủ nợ có bảo đảm toàn bộ sang chủ nợ có bảo đảm một phần hoặc chủ nợ không có bảo đảm, thì phải có sự thỏa thuận giữa chủ nợ và con nợ về việc định giá lại giá trị tài sản bảo đảm, nếu đạt được thỏa thuận này chủ nợ có bảo đảm sẽ chuyển thành chủ nợ có bảo đảm một phần hoặc chủ nợ không có bảo đảm và có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Trên thực tế trường hợp này rất ít xảy ra do việc thỏa thuận khó có thể đạt được khi thỏa thuận đó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của con nợ (doanh nghiệp mắc nợ). Vì vậy, trong quá trình định giá giá trị tài sản bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm toàn bộ cần định giá chính xác, khách quan và lưu ý yếu tố phòng ngừa rủi ro đối với tài sản bảo đảm.

Luật Phá sản năm 2014 cũng quy định thời gian chủ nợ có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là khi hết thời hạn ba tháng kể từ ngày khoản nợ đến hạn mà doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Quy định này mặc dù kéo dài thời gian nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của chủ nợ song cũng là cơ hội để hai bên thỏa thuận, đàm phán nhằm tìm ra phương án tốt hơn cho việc giải quyết các khoản nợ mà không nhất thiết phải thông qua thủ tục phá sản doanh nghiệp. Đồng thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thời gian giải quyết khó khăn, tránh áp lực nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản từ phía chủ nợ, cũng như giúp chủ nợ có cơ hội bảo toàn và thu hồi trọn vẹn khoản nợ từ con nợ. Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của chủ nợ không phụ thuộc giới hạn các khoản nợ, điều này có thể hiểu là khi trở thành chủ nợ của bất kỳ khoản nợ nào, số lượng nợ là bao nhiêu, thì chủ nợ đều có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Với quy định này, quyền của chủ nợ được đảm bảo tối đa, chủ nợ không cần chứng minh quy trình đòi nợ trước đó, cũng không cần phải xác định số lượng nợ nhiều hay ít đều có quyền khởi kiện, điều này tác động trực tiếp đến các con nợ là phải giải quyết tất cả các khoản nợ nếu không muốn bị rơi vào nguy cơ tuyên bố phá sản.

Thứ hai, Luật Phá sản năm 2014 phân biệt rõ chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm toàn bộ và chủ nợ có bảo đảm một phần. Các chủ nợ khác nhau thì có địa vị pháp lý khác nhau trên tinh thần bảo vệ quyền lợi ích của chủ nợ có bảo đảm triệt để hơn so với các loại chủ nợ khác. Mặc dù Luật Phá sản năm 2014 đã có sự điều chỉnh về thứ tự ưu tiên thanh toán khi giải quyết phá sản doanh nghiệp, theo đó chủ nợ có bảo đảm toàn bộ và chủ nợ có bảo đảm một phần đều có có cùng thứ tự thanh toán với chủ nợ không bảo đảm đối với khoản nợ chưa được thanh toán, nghĩa là trong trường hợp giá trị tài sản bảo đảm tại thời điểm thanh toán bị giảm so với giá trị định giá ban đầu nên không đủ để thanh toán các khoản nợ cho chủ nợ có bảo đảm thì phần giá trị chưa được thanh toán sẽ được thanh toán cùng thứ tự với các khoản nợ của chủ nợ không có bảo đảm. Tuy nhiên, Luật Phá sản năm 2014 quy định chưa rõ ràng về vấn đề này, cụ thể: Điều 41 quy định trong thời hạn năm ngày làm việc kể từ ngày Tòa án nhân dân thụ lý vụ việc phá sản, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền tạm đình chỉ việc xử lý tài sản bảo đảm của doanh nghiệp, hợp tác xã đối với các chủ nợ có bảo đảm; Điều 48 quy định sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, cấm doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện các hoạt động như: Thanh toán khoản nợ không có bảo đảm, trừ khoản nợ không có bảo đảm phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản và trả lương cho người lao động trong doanh nghiệp, hợp tác xã quy định. Quy định trên cho thấy, việc xử lý tài sản bảo đảm đối với chủ nợ có bảo đảm toàn bộ bị nghiêm cấm ngay từ thời điểm Tòa án có thẩm quyền thụ lý vụ án, song việc thanh toán các khoản nợ cho chủ nợ không có bảo đảm chỉ bị nghiêm cấm sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản của Tòa án nhân dân có thẩm quyền. Những quy định trên chưa bảo vệ được lợi ích của các chủ nợ có bảo đảm - chủ thể đáng được bảo vệ triệt để hơn khi giải quyết phá sản doanh nghiệp. Vì trên thực tế, dù doanh nghiệp có bị tuyên bố phá sản hay không thì tài sản bảo đảm vẫn thuộc quyền xử lý của chủ nợ có bảo đảm khi doanh nghiệp không có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn theo sự thỏa thuận của các bên.

Thứ ba, Điều 47 Luật Phá sản năm 2014 quy định: Sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp, hợp tác xã vẫn tiếp tục hoạt động kinh doanh, nhưng phải chịu sự giám sát của thẩm phán và quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. Điều này có nghĩa là doanh nghiệp vẫn được tiếp tục ký kết các hợp đồng và thiết lập các mối quan hệ mới, như vậy việc xuất hiện các chủ nợ sau khi tòa án tuyên bố mở thủ thục phá sản là điều không tránh khỏi. Những chủ nợ xuất hiện sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản được gọi chung là “chủ nợ mới”. Đây thực ra là những chủ nợ xuất hiện trong quá trình nỗ lực phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. So với Luật Phá sản năm 2004, thì Luật Phá sản năm 2014 đã có một số quy định nhằm bảo đảm lợi ích cho “chủ nợ mới” trong thứ tự ưu tiên thanh toán khi doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản (Điều 54). Tuy nhiên, Luật Phá sản năm 2014 quy định chưa rõ ràng về địa vị pháp lý của những “chủ nợ mới” cũng như chưa có cơ chế phù hợp trong quá trình giải quyết phá sản doanh nghiệp để khuyến khích các đối tác tham gia vào hoạt động phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cụ thể: Theo quy định tại Điều 68 Luật Phá sản thì, trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày ra quyết định mở thủ tục phá sản, danh sách người mắc nợ phải được niêm yết công khai tại trụ sở Tòa án nhân dân tiến hành thủ tục phá sản, trụ sở chính của doanh nghiệp, hợp tác xã và phải gửi cho người mắc nợ trong 10 ngày làm việc kể từ ngày niêm yết. Trong thời hạn năm ngày làm việc kể từ ngày kết thúc thời hạn niêm yết, người mắc nợ và doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán có quyền đề nghị thẩm phán xem xét lại danh sách người mắc nợ. Trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày nhận được đề nghị xem xét lại, thẩm phán phải xem xét, giải quyết đề nghị, nếu thấy đề nghị có căn cứ thì sửa đổi, bổ sung vào danh sách người mắc nợ. Như vậy, thời điểm quyết định danh sách chủ nợ cuối cùng là 53 ngày kể từ ngày ra quyết định mở thủ tục phá sản. Nhưng theo quy định của Luật Phá sản năm 2014, thì hoạt động của doanh nghiệp vẫn tiếp tục đến khi có quyết định tuyên bố phá sản và thanh lý tài sản doanh nghiệp của Tòa án có thẩm quyền. Với quy định này, thì những “chủ nợ mới” có thể không có tên trong danh sách chủ nợ và không được thanh toán các khoản nợ khi doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản. Bởi vì, theo quy định của Luật Phá sản thì muốn được thanh toán các khoản nợ khi doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản các chủ nợ phải có tên trong danh sách chủ nợ đã được Tòa án có thẩm quyền niêm yết. Những quy định trên vô tình đã đưa những phương án phục hồi sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản chỉ mang tính chất hình thức và không có tính khả thi vì nó hạn chế sự tham gia của các đối tác kinh doanh vào quá trình này.

Tóm lại, việc xác định địa vị pháp lý của chủ nợ trong quá trình giải quyết vụ án phá sản là vô cùng quan trọng, không chỉ thể hiện đúng tinh thần và vai trò của pháp luật phá sản là để bảo vệ lợi ích của của các chủ nợ, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp, thiết lập trật tự kinh doanh trên thương trường, mà việc xác định đúng vị trí pháp lý của các chủ nợ còn quyết định đến sự tồn tại hay không của chính các doanh nghiệp đang tham gia vào nền kinh tế. Mặc dù, sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp là vô cùng quan trọng đối với mọi đất nước, nhưng doanh nghiệp chỉ phát triển bền vững trên cơ sở dung hòa lợi ích giữa các nhóm chủ thể trong xã hội. Đồng thời, việc loại bỏ những doanh nghiệp kém phát triển, kinh doanh không hiệu quả cũng là vấn đề vô cùng cần thiết để làm trong sạch môi trường đầu tư. Trên thực tế, trong các mối quan hệ kinh tế rất nhiều doanh nghiệp kinh doanh và phát triển trên cơ sở dung hòa lợi ích các bên nhưng cũng không ít doanh nghiệp dựa vào quy định pháp luật về phá sản doanh nghiệp để trốn tránh các nghĩa vụ tài sản đối với các chủ thể khác. Việc quy định rõ ràng địa vị pháp lý của các chủ nợ trong mối quan hệ này giúp các chủ nợ mạnh dạn hơn trong đầu tư kinh doanh, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển, đồng thời là cơ chế ràng buộc trách nhiệm của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh và khi doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản.

ThS. Nguyễn Thị An
Đại học Tài chính kế toán Quảng Ngãi

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm